Thật tuyệt vời và cũng thật rất không tuyệt vời khi đọc đi đọc lại một cuốn sách như A Moveable Feast.
Nó là một cuộc tính sổ, nhưng cũng là cuốn sách rất tình cảm cho Paris. Căn nguyên nhan đề nằm ở một bức thư Hemingway viết cho một người bạn vào năm 1950: “If you are lucky enough to have lived in Paris as a young man, then wherever you go for the rest of your life, it stays with you, for Paris is a moveable feast.”
Khi đã từng ở Paris thời trai trẻ thì sau này dù có đi đâu Paris vẫn mãi đi cùng, bởi vì “Paris is a moveable feast”. Đến chương cuối, cả nhà Hemingway rời khỏi Paris, khi đó Mr. Bumby ông con trai hay chơi trong giường cũi với con mèo F. Puss sẽ không thể giữ được sức khỏe tốt nếu tiếp tục ở lại. Một câu đầy cay đắng của Hemingway nói rằng “our Paris was too cold for him”. Cay đắng, bởi vì với Hemingway rời Paris tức là rời khỏi nơi có thể ngồi viết văn hàng giờ, gỡ bỏ đi tất cả những gì người khác thường giữ lại trong truyện, tại Closerie des Lilas ngay đoạn quảng trường Observatoire. Quán Rotonde ở đại lộ Raspail là nơi để khoe mẽ, nhưng Closerie des Lilas thì khác, tại đó có anh phục vụ bàn Jean sẵn sàng rót đầy tràn ly whisky cho Hemingway và người bạn Evan Shipman. Chương cuối sách được đặt cái tên đầy nostalgia: “There Is Never Any End to Paris”.
Paris với tôi là một thành phố vừa đáng yêu vừa đáng ghét, mà cũng rất có thể bởi vì tôi thích nó quá nên cũng rất ghét nó, người ta có thể tới một nơi nào đó rất đẹp nhưng không thể sống tại đó. Tại Paris bất kỳ ai cũng sẽ “bourlinguer” như tên một cuốn sách của Blaise Cendrars, nhân vật mà Hemingway miêu tả, nhân vật cụt tay và cứ luôn cố cho thấy là mình bị cụt tay, trở thành một “bourlingueur”, kẻ lang thang ngóc ngách và thường xuyên rơi vào các cuộc ẩu đả trên phố, như cuộc ẩu đả tại một nơi nào đó bến cảng Hà Lan mà Cendrars từng kể lại. Nó quá intense, và quả thực nó không tốt cho sức khỏe cũng như một số thứ khác. Quá intense, nên không thể bình ổn, mà sống với một cơn sốt thường trực (sốt thật chứ không phải sốt bệnh tưởng như Hemingway miêu tả về Scott Fitzgerald tại khách sạn trên đường từ Lyon về Paris) cũng giống như là mù tạt trong cả bữa ăn (Raymond Queneau nói thành công ở tuổi năm mươi, ở đây là Zazie dans le métro, giống như là dùng mù tạt khi tráng miệng).
Ngày xưa khi Nguyên Sa trở về lại Sài Gòn người ta nói ông mang Paris về cho cả một lớp thanh niên. Thật ra đọc tiểu sử thì Nguyên Sa sống ở ngoại ô Paris để học nốt trung học mãi rồi mới lên Paris học Sorbonne rồi cũng quay về khá sớm. Tôi không có cùng tâm trạng như Nguyên Sa, tôi thấy bài “Paris có gì lạ không em” sao mà chán, một bài Paris khác có khá hơn, nhưng cũng chỉ hay nổi ở vài câu: “và có lẽ tôi sẽ kể chuyện Paris/để khói thuốc xám trên môi dăm người bạn/và trên môi tôi/điếu thuốc sẽ run lên những đường cong lận đận”. Một nhà thơ quá hạnh phúc như Nguyên Sa khó mà là một nhà thơ giỏi, nhiều người từng nói vậy. Paris nỗi ám ảnh của trí thức Việt Nam, sang đó rồi về để lại vết bẩn trên vô số báo chí của những “Paris một thoáng”, “Paris thoáng chốc”, “Paris một lần tôi đến như đã hò hẹn tự bao giờ”. Một giai thoại kể rằng Từ Chi khi sang Paris ngồi ở quán cà phê rồi quen tay cứ thế gạt tàn thuốc là xuống sàn, rồi ngượng quá mới xin lỗi anh bồi, anh bèn trả lời thì sàn nhà là để làm việc đó chứ gì nữa bây giờ.
Paris mà tôi thích chính là Paris của thời Hemingway miêu tả, không đúng chính giữa nhưng cũng là đoạn cuối, thời của Paris điên rồ, của nghèo nàn, của quý tộc, của văn chương và những tờ tạp chí sớm nở tối tàn, một thời “Belle Époque” chặn đứng mọi điều tầm thường để đòi hỏi con người ta phải bước chân vào một thế giới mong manh ít ánh sáng nhiều sương khói bóng tối và những suy nghĩ kỳ quặc. Hemingway cũng nhắc tới Valery Larbaud, nhà văn mà tôi yêu quý. Nhà Larbaud thời ấy, thời khi vừa dịch Ulysses của Joyce sang tiếng Pháp, vì tốt với bạn bè nhiều hơn là vì cái gì khác, nằm ngay cạnh nhà Hemingway ở hồi đầu, phố Cardinal Lemoine. Nhà Larbaud ở phố cạnh đó, giờ vẫn còn biển đề bên ngoài.
Sylvia Beach, nhưng không chỉ là Sylvia Beach. Thời đó còn có những người phụ nữ tuyệt vời của văn chương nghệ thuật. Hiệu sách của Sylvia Beach chỉ là một trong hai hiệu sách của phụ nữ, hiệu còn lại của Adrienne Monnier. Những người như James Joyce khi sống ở Paris phải dựa rất nhiều vào mấy người phụ nữ này. Hay Natalie Barney, một nhân vật nữ người Mỹ khác, người bảo trợ cho T. S. Eliot ra được tạp chí Criterion, Barney người bạn gái thân thiết của Remy de Gourmont, con người cuồng nộ và rụt rè. Hiệu sách Shakespeare and Co. ngày nay nằm đối diện với Notre-Dame de Paris tuy cùng tên nhưng hoàn toàn không phải hiệu sách ngày nào của Sylvia Beach.
Thời đó là thời của bộ tứ vĩ đại Gide, Proust, Valéry và Claudel, rồi một bộ tứ M huyền ảo của NXB Grasset: Maurois, Mauriac, Malraux và Montherlant, ngoài ra sẽ không thể không hiểu được khí chất của thời ấy nếu chưa bao giờ đọc ba nhân vật Paul Morand, Blaise Cendrars và Jean Giroudoux, cũng như các nhà phê bình như Jacques Rivière, Charles Du Bos và nhất là Albert Thibaudet; cũng giai đoạn này Alain-Fournier viết Le Grand Maulnes. Thời này cũng là thời của tự do báo chí điên loạn, cho đến lúc ngay khởi đầu của Thế chiến thứ nhất, khi Mme Caillaux vợ thứ của ông Bộ trưởng tài chính xông vào văn phòng của Gaston Calmette rút khẩu súng lục nhỏ xíu bắn chết bộ não của tờ Le Figaro, vì tờ báo có nguy cơ phanh phui rất nhiều chuyện bí mật của nhà bà. Rồi Philippe Berthollet của Bộ ngoại giao, nhân vật ngoại hạng, người khiến cho cả Claudel, Giroudoux, Morand lẫn Saint-John Perse được sung sướng dưới cái mác nhà ngoại giao.
Đoạn tôi thích nhất trong A Moveable Feast là chương Hemingway kể về một tay cứ đến quấy rầy ông khi ông đang ngồi viết trong quán. Tôi vẫn luôn có sự thích thú khá bệnh hoạn là xem ông nhà văn nào chửi được dân phê bình hay nhất. Hemingway sẽ được xếp vào thứ hạng rất cao trong palmarès riêng của tôi. Nhân vật này bị Hemingway ghét hơn cả ghét, vì khi rất ghét ai đó như ghét Ernest Walsh trong một bữa ăn trưa khi Walsh tung ra một lời đề nghị khiếm nhã thì Hemingway chỉ trả thù bằng cách gọi Walsh là “Ernest”, nghĩ rằng mình ghét cái tên mình như thế thì lấy nó ra gọi Walsh chắc nó phải nhục lắm. Còn nhân vật kia thậm chí còn không được nêu tên. Bị quấy rầy đến phát điên, Hemingway mới khuyên người bạn đó thôi đừng viết văn nữa mà chuyển sang viết phê bình đi. Một boxer chắc không tồi (không biết đấm nhau với Jean-Paul Sartre thì ai thắng), đã từng dạy Ezra Pound đấm vài cú, Hemingway chắc là biết vô số ngón đòn hiểm. Mặc dù ngày càng điên tiết với cái kiểu Hemingway cứ tự khẳng định mình manly bằng đấm bốc, bằng uống rượu, trượt tuyết, câu cá và đo chim Fitzgerald, nhưng phải nói là càng ngày tôi càng ngưỡng mộ các đòn hiểm của Papa Hemingway.
+ Out of Africa là tác phẩm của người vợ đầu của nam tước von Blixen, một nhân vật bạn bè của Hemingway, xuất hiện trong câu chuyện giữa Hemingway và người chủ quán bar Ritz nhiều năm sau này, nhiều năm sau cái chết của Fitzgerald.