Trong tiếng Anh, những người như Đan Đông được (đúng hơn là “bị”) gọi là “rệp” (bug): con rệp hút trộm máu các bữa tiệc. Chính vì vậy nhan đề tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Khách không mời” (tác giả: Geling Yan tức Yến Kha Lăng, Lê Quang dịch, Phương Nam và NXB Hội Nhà văn) có tên “The Banquet Bug” (Rệp Tiệc).
Còn trong tiếng Pháp, những người trơ mặt đến đóng giả nhà báo hoặc nhân vật mang lý lịch vượt trội để được tiệc tùng ngon lành và no nê có lúc được gọi là “hirondelle”, nghĩa là “chim nhạn”. Những con chim này không ẩn mình và không chờ chết; không có gì chung giữa những con chim chiến đấu vì cái dạ dày này và những con chim của dòng văn học nhiều nước mắt (Cha Ralph, xén lông cừu và trang phục màu tro của hoa hồng). Ngược lại, đó là những con chim xuất hiện ở những bữa tiệc xa hoa nhất, đụng đũa vào các món ăn cầu kỳ và bí ẩn nhất, thậm chí nhiều khi mặt còn lấp ló trên báo chí. Chúng cũng hoạt động rất tích cực để sống, quẫy đạp trong cõi đời khó nhọc, giống như Đan Đông của nhà văn Yến Kha Lăng, người có độc hai chiếc áo sơ mi nghiêm chỉnh, một màu trắng một xanh da trời, rất lo gây tổn thất cho cà vạt và luôn tự hỏi đến ăn tiệc lén lút như vậy thì sao lại có tội, vì lúc nào cũng “có quá nhiều thức ăn cơ mà”.
Đan Đông thò mỏ vào “mổ” các bữa tiệc cần có truyền thông làm bệ đỡ. Và vì bản chất vốn là “một con rệp thật thà” nên anh ta cũng có đạo đức riêng của mình: “Ăn tiệc là một công việc nghiêm túc và căng thẳng, đòi hỏi đạo đức nghề nghiệp tốt, siêng năng, dũng cảm, vân vân và vân vân” (tr. 17). Nghe rất giống đạo đức của mọi thứ nghề có chỗ đứng đường hoàng dưới mặt trời nào khác. Đạo đức này, trong “Khách không mời” sẽ còn được lồng vào với một đạo đức khác: không hề ngờ trước, Đan Đông dần trở nên giống như đích thực một “nhà báo chân chính”. Những cuộc gặp gỡ không ngờ bên bàn tiệc dẫn anh ta đến với một số con người đau khổ. Đến một lúc, Đan Đông “ngộ” ra được một điều mà ngay cả nhiều nhà báo được cấp thẻ hành nghề cũng chưa bao giờ nghĩ tới: làm báo nghĩa là “tìm những nhân vật thương đau, rồi đào bới những nỗi thống khổ của họ lên” (tr. 360).
Thủ pháp của Yến Kha Lăng không có gì mới mẻ, nhưng cũng chính có thể vì vậy mà nó thuyết phục: đặt sự xa hoa bên cạnh sự bần cùng, sự thờ ơ bên cạnh những xúc động chân thành từ tâm hồn một con người vẫn chưa thoát hết khỏi nguồn gốc nông dân như Đan Đông. Tương phản càng lớn, nhất là giữa những gì đút được thẳng vào mồm (tổng giám đốc Vũ chuyên xây nhà chung cư chất lượng tồi tệ ăn một bữa bằng tiền lương mấy năm của công nhân) khiến sự chua xót hiện lên không gợn một chút nghi ngờ: “Cái xã hội này bệnh hoạn rồi” (tr. 23).
Cũng vì đưa cái thấp kém vào đặt cạnh cái hào nhoáng nên tuy cũng cùng bày ra khung cảnh tồi tệ và xấu xa của nghề báo nhưng Đan Đông của “Khách không mời” không có gì chung với nhân vật lừng danh Georges Duroy của Guy de Maupassant trong “Bel Ami” (Anh bạn điển trai). Duroy lợi dụng nghề báo để tiến thân và đi lên trong xã hội, trong khi Đan Đông lợi dụng danh nghĩa phóng viên chỉ để ăn, rồi đi xuống trong xã hội: từ tư cách một “công nhân dự phòng” trở thành tội phạm, bị công an bắt, nghĩa là lâm vào số kiếp của một “con rệp có thể bị nghiền nát bất cứ lúc nào” (tr. 68).
Cuốn tiểu thuyết này xứng đáng được xếp vào danh mục tác phẩm xuất sắc lấy lưu manh làm chủ đề sáng tác. Danh mục này rất dài trong văn học Trung Quốc (cũng như văn học Việt Nam). Dù được thể hiện theo cách này hay cách khác, được nhìn nhận không giống nhau ở mỗi trường hợp, nhưng văn học Trung Quốc quả thực dày đặc lưu manh, từ các chàng thảo khấu thích bắn cung và đào tường khoét ngạch trong “Thủy Hử” của văn chương cổ điển cho tới kiệt tác “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn sau này, rồi cả trong tác phẩm của các nhà văn trẻ hiện nay. Văn học hóa sự lưu manh dường như là một dòng văn chương không thể bỏ qua; mặt khác nó cũng đặc biệt hấp dẫn. Dù thế nào đi nữa, văn học hóa sự lưu manh chắc chắn vẫn tốt hơn nhiều so với lưu manh hóa văn học.
Nhị Linh