Chẳng muốn cũng không xong

Qua vụ Sài Gòn tiếp thị, tuy không có đủ thông tin (chắc cũng chẳng ai có đủ thông tin) nhưng căn cứ vào những gì được hiển thị, tôi nghĩ rằng trước khi có một biến chuyển nào, tôi sẽ không cộng tác viết bài cho Sài Gòn tiếp thị nữa. Tôi đã viết chừng hơn mười bài, luôn đánh giá cao tờ báo vì chưa bao giờ cắt sửa, khi sửa gây ra lỗi thì nhanh chóng xin lỗi. Tôi cũng rất tiếc vì hiện nay trong số các tờ báo có tiếng nói ở Việt Nam chỉ Sài Gòn tiếp thị mới cho đăng những bài rất dài và có ý kiến riêng; tôi đã từng đăng một bài điểm sách gần 2.000 từ trên đó, một kỷ lục cá nhân.

Đây là quyết định của cá nhân tôi, không liên quan đến ai cả, chỉ xin được bày tỏ sự ủng hộ với anh Huy Đức.

——————-

Cuối tuần mời các bác đọc bài điểm sách của anh Nguyễn Chí Hoan về Chuyện xưa kết đi được chưa? của Bảo Ninh, nhan đề bài viết là “Luôn luôn nhớ lại”, đã đăng báo.

Tập truyện này tập hợp mười sáu truyện ngắn, trong đó có những truyện đã từng xuất bản trong Lan man trong lúc kẹt xe (Bảo Ninh, 2004), nhưng một sự nhất quán nổi bật về phong cách và chủ đề khiến người ta có thể đọc toàn bộ một cách mới mẻ đồng thời khiến các câu chuyện này bộc lộ tầng ý nghĩa mới mẻ của chúng.

Trước hết, sự nhất quán về chủ đề có thể gieo ấn tượng về sự trùng lắp đối với một cái nhìn thành kiến hay lơ đãng nào đó. Tất cả các truyện ở đây đều kể về việc nhớ lại và những tình huống suy ngẫm đối diện với việc nhớ lại; và các bối cảnh hay bản thân những hồi ức, ký ức đó đều là cảnh huống thời chiến và thời hậu chiến với những khắc khổ kỳ quặc bất thường.

Trong cái bề ngoài của cái đà sống phăng phăng trôi chảy của thời bùng nổ thông tin-truyền thông, một thời hiện đại đến muộn gần như đồng nhất với tâm lý cái mới và sự vồ vập với bất cứ cái gì có được vị thế là “Mới!”, thì những hồi ức gắn với chiến tranh đã hầu như mất hoàn toàn lợi thế so sánh.

Nhưng, đó là những hồi ức nào chứ?

Câu chuyện được lấy tên đặt cho tập này – “Chuyện xưa kết đi, được chưa?” – đã đưa ra một gợi ý phân biệt.

Truyện chỉ là một tình huống: “Tôi” đã cố hết sức để tránh việc “bác Lân”, đồng đội cũ của người cha liệt sĩ của “Tôi”, ôn kể những ký ức chống Mỹ của ông trong bữa cơm gặp mặt gia đình “Tôi” với gia đình “Loan” vị hôn thê của “Tôi”, bởi gia đình “Loan” toàn những người thuộc chính thể Sài Gòn cũ; nhưng cái điều cố tránh đã thành không tránh khỏi: nhân vật “anh của Loan”, một Việt kiều ở Mỹ về, vừa nói đến “Đường mòn Hồ Chí Minh” thì lập tức “bác Lân” nắm ngay lấy cửa mở đó để khai triển dòng nhớ lại quen thuộc của mình về thời đánh Mỹ trên Trường Sơn…

Phản ứng trước sự bộc lộ của hồi ức đó rất khác nhau.

“Tôi” với “các em tôi” thấy sốt ruột vì đã nghe nhiều đến thuộc. Nhưng cha và anh “của Loan” thì chăm chú và hỏi sâu vào các chi tiết. Và cuối cùng, khi “bác Lân” bị “Tôi” ngăn lại thì “mẹ tôi” òa ra khóc.

Có thể thấy ý tưởng ở đây không đơn giản. Không phải là chuyện xưa kể mãi rồi, “Người lính già kể mãi chuyện Nguyên Phong” rồi “kết đi, được chưa?”. Mà, với sự có mặt của những chứng nhân bên kia chiến tuyến một thời, hồi ức đó hiện lên như một chứng từ của lịch sử – cái vai trò đã bị những sự lặp lại khiến cho lu mờ. Đồng thời, tiếng khóc của “mẹ tôi” không chỉ là một cái lắc đầu phê phán đối với sự lãng quên, mà chủ yếu và sâu xa hơn là tiếng cảm thán đối với tình cảm thụ động của lớp con cháu đối với ký ức, với những chứng từ sống động của lịch sử đó – Tại sao các người chỉ thấy được cái nhàm chán trong sự lặp lại, trong việc không ngừng nhớ lại? Tại sao các người chỉ có một cách giương mắt ngồi nghe, xong bảo chuyện xưa lắm rồi? Tại sao các người chỉ biết nói như con vẹt ừ rằng thì là công ơn chúng con biết rồi? Tại sao các người đối xử với những chứng từ lịch sử chỉ như những bài học thuộc lòng, tại sao không thấy được trong sự nhớ lại không ngừng đó những bài học của lịch sử?

Sự lặp lại là một ấn tượng mạnh, gần như một ám ảnh ở đây, đến mức tác giả không ngại ngần – hoặc không kìm nén một cách có chủ ý – thể hiện nó trong những phép lặp và trùng ngôn biểu cảm không che đậy:

“Cố nhiên thời nay, bây giờ, nghe kể khổ kể xấu thời bao cấp đã mệt lỗ tai, nhưng xưa, khi đang ở ngay trong cái thời bao cấp đó của Hảo và Túc, có mấy ai nghĩ rằng mình đang trải qua một đoạn đời cực ơi là cực. Con người ta thuở ấy cũng như con người ta muôn thuở chỉ lo sống, cứ thế sống, sống và chỉ có sống mà thôi”. (tr. 38, “Mắc cạn”).

Đoạn văn này có hai câu. Nhưng nó có dáng dấp một tam đoạn luận và nét đặc biệt nhất ở đây là các ngữ đoạn chỉ thời không ngừng lặp lại và nâng cấp độ. Từ câu thứ nhất sang câu thứ hai, các ngữ đoạn chỉ thời đã đưa cả “thời nay” và “thời bao cấp” lên bình diện “muôn thuở”, và sự lặp lại của thời gian đó chính là nội hàm hay định nghĩa cho bốn từ “sống” cuối cùng mà đọc lên nghe như hư từ cảm thán.

Ta hãy xem một đoạn khác:

“Giao thừa năm nào tôi cũng lắng nghe, cũng chờ mong tiếng chuông nhà thờ. Giao thừa là phút giây lặng lẽ cho riêng ký ức cuộc đời tôi. Đêm trừ tịch đánh thức dậy một đoạn đời đã chết từ lâu, làm sống dậy trong tôi mảnh hồn ma gầy guộc mang gương mặt rỗ đậu mùa thân yêu hiền hậu. Hành và tôi, hai anh em, kể từ mùa xuân năm ấy đã sát cánh nhau dấn mình vào cơn cuồng phong lửa đạn và đã cùng nhau nhiều năm trời vui hưởng chết chóc cho mãi tới ngày Hành được cái chết rước đi trong trận quyết chiến ở xứ đạo Tân Cảnh bên bờ sông Pô Cô. Thế nhưng cả sau khi Hành đã chết, Hành và tôi vẫn như hình với bóng”. (tr. 188-189, “Đêm trừ tịch”).

Đoạn văn này, trong nguyên tác có bảy câu mà ở đây tôi trích năm câu, là một đoạn văn điển hình không chỉ về cú pháp và chương pháp, những mẹo mực và phép tắc hành văn đã khiến cho mỗi đoạn văn tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh – của cảm xúc hoặc của sự kiện, hoặc chân dung.

Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là sự lặp lại, một phép lặp điển hình vừa rõ rệt vừa uyển chuyển và phong phú về từ vựng. Ai cũng sẽ lưu ý đến bốn từ “chết” trong vòng có năm câu này, nhất là trong ngữ đoạn cuối câu bốn “tới ngày Hành được cái chết rước đi” với ngữ đoạn “cả sau khi Hành đã chết” ở câu thứ năm liền kề.

Cao trào của đoạn ở ngay trước đó trong câu bốn: “đã cùng nhau nhiều năm trời vui hưởng chết chóc” (tất nhiên, trong một “cơn cuồng phong lửa đạn”!).

Đó là nghịch âm chói sáng trong bản balát này.

Đoạn văn trình bày trọn vẹn một toát yếu cảm xúc và ý nghĩa về một đời người, người chiến sĩ đã hy sinh đó.

Và, như một nhà tư tưởng lớn người Pháp thế kỷ XVII đã nói đại ý mỗi một đời người đều mang hình thái thân phận của tất cả con người, thì cái toát yếu thân phận người chiến sĩ tên Hành nói trên mang những nỗi niềm không của riêng ai.

Nhưng xin hãy lưu ý đến sự lặp lại những ngữ đoạn chỉ thời. Cũng như ở đoạn trích trước, phần đầu của đoạn trích này, gồm ba câu, nổi bật sự lặp lại của những “Giao thừa”, “Phút giây lặng lẽ”, “Đêm trừ tịch”, “Ký ức cuộc đời tôi”, “Một đoạn đời đã chết từ lâu”. Mà có thể thấy, ngay cả hình ảnh “mảnh hồn ma gầy guộc…” cũng là một hình ảnh ẩn dụ về thời gian, thời gian quá khứ gắn liền với hiện tại.

Lưu ý đến tính chất toát yếu cảm xúc – ý nghĩa đời người của đoạn văn, ta thấy rằng các ngữ đoạn chỉ thời ở hai câu còn lại cũng giữ vai trò nền tảng kể cả về mẹo mực và ý nghĩa – “kể từ mùa xuân năm ấy”, “nhiều năm trời”, “cho mãi tới ngày”, “cả sau khi”.

Đó là cái nhìn người xưa gọi là nhất lãm, bao quát một lượt và thấu suốt. Và, cũng giống như ở đoạn trích trước, cái nhìn đó phát lộ tính thời gian xuyên suốt con người cùng sự kiện, mà những sự lặp lại của thời gian đó cũng là nội hàm, là định nghĩa, nhưng lần này thì trái ngược: định nghĩa về “chết”.

Đó là gợi ý để hiểu vì sao lại có thể suốt “nhiều năm trời vui hưởng chết chóc”.

Một gợi ý khác tôi muốn nhắc đến là cái mệnh đề “Sống khó hơn là chết”, (Trung Trung Đỉnh, 2008). Hoặc xa hơn, gợi ý từ “điều mà Pushkin gọi là niềm hân hoan ta cảm thấy ở bất cứ điều gì kề cận với cái chết” (Frédéric Badré, Tương lai văn học, 2007).

Hẳn là tôi không đi quá xa. Bởi lẽ tất cả những câu truyện ở đây đều trình bày sự nhớ lại, nhớ lại không ngừng, dẫu rằng mỗi lần nhớ là một câu truyện khác nhau nhưng suy ngẫm từ đó thì đều đồng quy về ý nghĩa của sống và chết.

Mà dưới cái bề ngoài giản dị của truyện kể, của lời kể phóng khoáng một cách tinh tế, những khía cạnh của cái ý nghĩa đó lại phong phú lạ thường, sống động như hơi thở từ trong lồng ngực của chính ta.