Sách (II)

Bây giờ vẫn có tiếng rao hàng ngoài đường vào ban đêm, bán bánh mì, bán những thứ đồ ăn vặt như sắn luộc khoai luộc. Nhưng rất nhiều đã chuyển sang hình thức rao qua loa, giống như bán báo đợt trước ra rả tin tức đã thu sẵn, giọng thường xuyên có âm sắc Hải Phòng, Hải Dương hay ngoại thành Hà Nội. Đợt vừa rồi kiếm được quyển Người ven thành của Tô Hoài, một bản in rất đẹp, chưa kịp đọc nhưng nghe “ven thành” đã thấy hay rồi, văng vẳng như cái tên quyển sách Ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp. Tô Hoài vừa rồi trở thành nhân vật cho Vương Trí Nhàn, bài viết “Tô Hoài nhìn từ một khoảng cách gần” chắc đã nhiều người đọc. Đến cả mấy ông bên CAND cũng đọc thì chắc dân tình ối người đọc rồi hehe. Nhìn vào mấy bản khác nhau, kể cả bản ghi có chỉnh lý, sửa sang, tất tật đều thấy từ “blaser” trong câu nói của Tô Hoài về Vương Trí Nhàn: “Còn Nhàn thì ông blaser quá, tức là chai sạn mất rồi…” Hình như không ai biết ý Tô Hoài muốn nói “blasé” (gần nghĩa với “nonchalant”), ơ hờ, thờ ơ, hờ hững, còn “blaser” chẳng có nghĩa gì cả.

Tiếng động ngoài phố bây giờ chủ yếu là tiếng điện tử. Dạo này còn đỡ, cách đây vài năm mấy cái thiết bị cân đo con người chạy khắp nơi khắp chốn mà “Rất hân hạnh được phục vụ, rất hân hạnh được phục vụ”. Nghe nhiều đến phát sốt phát rét, muốn không những cả đời không cân đong đo đếm gì nữa mà còn cả không tắm không cạo râu không thay quần luôn. Xóm nhỏ chợ Tân Định cách đây vài năm, trời nóng chang chang mà mấy cái kem Wall’s (chắc buôn bán thất bát giờ biến mất rồi thì phải) cứ liên tục mấy tiếng nhạc gớm ghiếc nghe hao hao “Không có tiền, không có tiền”. Lại nhớ đến bản étude của Bach ngày xưa, đồng loạt lũ học trò gọi là “Túi không tiền” vì suốt ba trang chỉ lặp đi lặp lại một âm sắc nghe hao hao như “Túi không tiền”. Nghe thật là buồn nhưng thật ra cùng với “Étude brillante” đây là một bản nhạc rất xuất sắc. Có thể làm người ta quên đi cái sự thật là “túi không tiền”.

Liếc qua lại Tình yêu kéo dài ba năm (L’Amour dure trois ans) của Frédéric Beigbeder. Vừa mới in xong, bìa trông nâu sồng nhưng cũng có chất. Lại một ví dụ nữa của autofiction. Văn chương Pháp mà, autofictionnel. Nhưng quyển này của Beigbeder không phải là tồi. Quyển Bí ẩn nĩa ba răng, tức chính là Sous les vents de Neptune, chật vật mất năm chương mới vào được chuyện. Đúng kiểu tôi thích: nhà văn lắm mồm nhiều chữ. Tôi thích sự không kìm giữ, những gì hào phóng, sự phân phát quá tay quá liều, rượu không ngừng chảy và lời không ngừng tuôn. Một độc giả văn học chân chính phải đọc những quyển tiểu thuyết thật là dày, những trường giang tiểu thuyết, những đợt sóng vỗ của ngôn từ. Để bù cho những lúc khác. Fred Vargas chuyển hẳn so với Trong những cánh rừng vĩnh cửu, nhưng cái mô hình ấy thì vẫn giữ nguyên. Một tỉnh lẻ nào đó ngoài Paris, phố Saint-Paul nơi Adamsberg có cảm xúc đầu tiên về cái đinh ba? Ở đây là Strasbourg, miền Đông, chứ không phải Normandie ở Tây Bắc như Trong những cánh rừng vĩnh cửu. Một hệ thống biểu tượng chặt chẽ và liên hoàn, dào dạt: không còn là thơ Racine và Corneille như Trong những cánh rừng vĩnh cửu, mà là các vị thần trên đỉnh Olympe. Dĩ nhiên việc không biết Junon là ai không ảnh hưởng mấy đến khả năng hiểu và cảm nhận cuốn sách. Nhưng biết thì vẫn tốt hơn:)

Cấu trúc “không chỉ/không những… mà/mà còn…” là một cấu trúc mới, trước đây người ta dùng phổ biến từ “nhưng” ở vị trí từ “mà”. Nguyên nhân rất có thể là sự mô phỏng máy móc từ “mais” (non seulement… mais…).