Đi từ đâu đến đâu?

Những con số đôi khi không phản ánh được đầy đủ một tình trạng. Người ta có thể nghĩ gì khi biết rằng ở Việt Nam hiện nay văn học dịch áp đảo văn học trong nước về số lượng (và cả chất lượng), và ở Mỹ tổng lượng sách dịch chỉ ở mức vài phần trăm rất nhỏ, thậm chí có nguồn còn nói chưa tới 1% thị trường sách? Rằng Việt Nam không có nền văn học nội địa, và nước Mỹ cố thủ boong-ke không buồn nhìn ra bên ngoài?

Tất nhiên là điều đó không đúng. Văn học Việt Nam có biết bao nhiêu tác phẩm làm say đắm người Việt Nam. Chưa nói gì đến tác phẩm “cao cấp”, thị trường văn học nội địa bình dân lúc nào cũng sôi nổi, các kỷ lục về phát hành trong văn học luôn thuộc về tác phẩm nội chứ không phải tác phẩm dịch. Còn nước Mỹ vẫn có ngành nghiên cứu văn học thế giới, văn học so sánh cực kỳ phát triển.

Một phần nguyên nhân ắt hẳn xuất phát từ cấu trúc xã hội. Mỹ có rất nhiều cộng đồng ngôn ngữ lâu đời, các hoạt động cũng như đường liên kết với thế giới bên ngoài sôi nổi và sâu sắc hơn nhiều so với những gì các con số thể hiện được. Ngược lại, ở Việt Nam, mong muốn nhìn ra thế giới luôn đi liền kề với năng lực dịch thuật. Nói một cách giản lược, xuất phát từ cấu trúc xã hội, dịch thuật ở Việt Nam tương đối cần thiết hơn so với đại đa số đất nước khác. Điều này có thể cắt nghĩa cho mối quan tâm rất lớn đối với dịch thuật ở Việt Nam, và cả cho tâm lý sốt ruột muốn hòa nhập thế giới của rất nhiều người, trong đó có… Hội Nhà văn Việt Nam.

Rất ít nhà văn Việt Nam ngày nay đọc được một cuốn sách trong nguyên bản, chưa nói tới chuyện cầu kỳ là giao thiệp trực tiếp hay qua thư từ với nhà văn nước ngoài. Quá trình tìm hiểu bên ngoài của văn chương Việt Nam có lẽ vẫn còn chưa đi được mấy chặng đường, thành thử mối bất liên thông chắc chắn sẽ còn kéo dài dai dẳng, một “Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam” dù được đặt vào rất nhiều kỳ vọng cũng không thể biến đường mòn thành đường cao tốc, cũng như thay đổi cấu trúc của văn hóa thế giới ngày nay.

Nhìn lại lịch sử dịch văn học Việt Nam sang các thứ tiếng khác, cách tiến hành thường xuyên rơi vào trạng thái “không tự nhiên”, nhiều khi chịu áp lực chính trị. Thời Pháp thuộc, Kiều được mấy lần dịch ra tiếng Pháp hay Hoa Tiên được Nguyễn Tiến Lãng dịch giống như là một thứ chiến lợi phẩm văn hóa của thực dân bên cạnh các chiến lợi phẩm vật chất. Rồi suốt thời 1954-1975, người ta dịch văn học Việt Nam chủ yếu là vì “cùng phe với nhau” (theo Tuổi Trẻ cuối tuần số 2/2010, cho đến năm 1973 có tới 121 cuốn sách Việt Nam xuất bản bằng 19 thứ tiếng với số phát hành gần 4 triệu bản). Sau 1975, chủ đề chính của các tác phẩm được dịch (chủ yếu tại Mỹ và Pháp) là chiến tranh.

Xét cho cùng, Việt Nam luôn được quan tâm vì các khía cạnh lịch sử và chính trị. Đã đến lúc cần phải hiểu rằng nếu chúng ta đọc tác phẩm nước ngoài vì chúng là tác phẩm văn học thì người nước ngoài, khi các sự kiện lịch sử Việt Nam dần lùi xa, điều họ quan tâm là bản thân văn học chứ không phải gì khác. Một số tham luận trong cuộc hội nghị lần này cũng nói rõ các nhà văn Việt Nam hãy viết cho hay, rồi các nhà xuất bản nước ngoài sẽ tự tìm đến. Kết luận này, lẽ dĩ nhiên, không cần tới cả một cuộc hội nghị tốn rất nhiều tiền nhưng được tổ chức cẩu thả đến kỳ quặc.

Mọi điều sẽ đi từ văn học đến văn học. Một dịp gặp gỡ vui vẻ của giới văn chương dịch thuật thì cũng tốt, nhưng hứa hẹn rằng sau đó sẽ có nhiều thay đổi thì thật chủ quan. Chính vì vậy, mặc dù rất mong muốn được nhìn thấy văn học Việt Nam hiện diện khắp nơi trên thế giới, tôi không đi dự hội nghị này.

https://nhilinhblog.blogspot.com/2010/01/i-tu-au-en-au.html