Mai Thảo-Võ Phiến

Bài đọc sách của Mai Thảo: “Phê bình Chữ tình truyện ngắn của Võ Phiến, Bình Minh xuất bản”, Sáng Tạo số 7, 4/1956 [bìa in bị lỗi, đúng ra phải là 1957].

Ngay cả ở nơi thiếu vắng hoàn toàn không khí tinh khiết và hơi thở thơm lành của thiên nhiên và tự do, đời sống con người vẫn có những thế giới những xã hội riêng. Vẫn có những mâu thuẫn. Vẫn có những thảm kịch. Lê Nọ, Huỳnh Thiện Thủ, Hòe và đến cả Linh nhân vật duy nhất của CHỮ TÌNH đứng ở bên ngoài cửa sắt (nhưng cũng đã nằm trong một tù ngục vô hình) qua những ngày tháng lê thê, giữa hai hồi kiểng tù, vẫn sáo động dầy vò bởi những băn khoăn, những đau đớn và những ước vọng như chúng ta. Một người yêu dấu. Một mái nhà cũ. Một giấc mộng đẹp. Những giòng chữ La Mã khổ 8 khổ 10 của những tờ bản thảo, tim phổi máu huyết chưa được in ra. Chua sót ở chỗ không bao giờ thực hiện được.

Võ Phiến đã sống với những con người ấy. Tôi còn muốn tin là Võ Phiến đã ôm mang cái tâm sự chứa nén của những con người ấy nữa. Công trình nghệ thuật nói lại những cái đã có thực. Không phải của tưởng tượng. Tiếng văn Võ Phiến trong CHỮ TÌNH chính là bản truyền thanh trực tiếp tiếng nói đời sống nhà tù. Nhẫn nhục một vẻ chịu đựng và yên lặng, cay đắng. Khoảng không gian u uất ngột ngạt đôi khi nổ bùng thành giông bão. Bởi vì ở bên này hay bên kia ranh giới của tự do, con người vẫn cứ đi theo sức sô đẩy của tâm hồn. Và thể hiện thành hành động: Lê Nọ giết thêm một lần nữa. Hy vọng làm Huỳnh Thiện Thủ già nua có những biểu tỏ bỡ ngỡ ngu dại của trẻ thơ. Giấc mơ in sách thường trực của Linh. Hòe với nguyên vẹn cảm giác điên cuồng của da thịt quyến rũ, huyễn hoặc. Đi tới độ tự đánh lừa mình để có cớ bám víu vào cuộc sống đang tuột khỏi, đang rời xa. Rồi giải quyết bằng hành động tuyệt vọng. Có điều là càng tuyệt vọng thì tâm sự càng nung nấu và hành động càng say mê điên cuồng.

Tôi thử đặt một giả thuyết: Nếu những Lê Nọ những Huỳnh Thiện Thủ những Linh những Hòe ấy được sống cuộc đời cân đối và bình yên của chúng ta thì họ sẽ ra sao? Điều chắc chắn là đời sống của họ sẽ bớt thiết tha mãnh liệt. Nói thế tôi không cổ động cho sự làm tội ác để vào tù. Tôi chỉ muốn đi tới một nhận xét: Con người nói chung ở đâu và bao giờ trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình cảm vẫn là một thực thể trường tồn và bất khả xâm phạm. Để những tên đao phủ [xxxx] biết chúng không bao giờ thực hiện được âm mưu hủy diệt tình cảm, và chế biến nổi người thành những lũ người máy.

Điểm đáng khen ngợi nhất của Võ Phiến trong CHỮ TÌNH không phải ở cốt truyện gây cấn, đặc biệt, mà ở chỗ đã nói lên được tính chất “người” đó, theo ý tôi. Đọc Võ Phiến ở đây, bối cảnh, thời và không gian chỉ là thứ yếu. Chính yếu là cái thế giới nội tâm của mỗi nhân vật. Nhà tù chỉ là một bức phông đen thẫm để những con người “vẫn viết những chữ tình” nổi bật lên trong từng ý nghĩ, từng cử chỉ, từng súc cảm. Những con người hoặc oan uổng, tội lỗi hay đáng thương nhưng qua cái bề mặt bình thản lặng lờ kia, vẫn chứa dấu một ngọn lửa khát khao đời sống. Mất tự do, nhưng cuộc tranh đấu lớn nhất: tranh đấu để tồn tại, vẫn tiếp tục.

Về hình thức, CHỮ TÌNH giới thiệu Võ Phiến qua một lối hành văn bình tĩnh và chừng mực. Anh điều khiển ngòi bút tỉnh táo tuy đôi chỗ rời rạc thiếu lôi cuốn, và rõ rệt là có dụng ý đi tới một lối diễn tả riêng. Cuối cùng tôi nghĩ đến những vùng đất đai cằn cỗi Miền Trung. Văn và tâm hồn Võ Phiến có nhiều sắc thái địa phương.

[vẫn là sao y bản chính, trừ chỗ xxxx]

—————

Chỉ cần thích Võ Phiến hơn, hay thích Mai Thảo hơn, có lẽ coi như là bạn đã thể hiện xong một thái độ đối với văn học miền Nam:)

Võ Phiến (Tràng Thiên) và Mai Thảo có list sách dài đến làm rụng rời tay chân những người chỉ đủ sức đọc mỗi tháng một quyển sách. Hai người gần như bằng tuổi nhau, đều quãng tròn 20 vào năm 1945. Bài viết trên đây có lẽ là lần đụng nhau đầu tiên của hai nhà văn mới bắt đầu khai phá văn chương, đồng thời giúp văn chương miền Nam bước đầu có nhà văn riêng của mình, một lớp tuổi trẻ “từ xa đổ bộ tới Sài Gòn”, không những khác với nhà văn ở sẵn đây mà còn tách biệt với các nhà văn tiền chiến ngày một đông hơn sau 1954: Vũ Hoàng Chương, Vũ Bằng, Lê Văn Trương, Nguyễn Vỹ, Bàng Bá Lân…

Giờ thì Mai Thảo đã qua đời, còn Võ Phiến, không hiểu sao, tôi có cảm giác giống như là một Tô Hoài của văn chương hải ngoại.

Năm 1956 khi Sáng Tạo ra đời trùng hợp với Nhân văn-Giai phẩm ngoài Bắc, cũng là năm Thanh Tâm Tuyền vừa in Tôi không còn cô độc khi vừa 20 tuổi. Thanh Tâm Tuyền thì còn cần quay trở lại nhiều :), nhưng cũng cần nói ngay là khoảng hơn chục năm sau mốc 1956 này, Võ Phiến sẽ dùng đúng nhan đề “tôi không còn cô độc” để chọc Thanh Tâm Tuyền, khi cả Thanh Tâm Tuyền cũng bước vào “làng phơi-ơ-tông”.

Kinh nghiệm đọc Mai Thảo của tôi cũng kỳ quặc. Xui xẻo thế nào quyển đầu tiên tôi đọc lại là Thời thượng, chán chưa từng thấy, tuy rằng phải công nhận Mai Thảo vào chuyện lúc nào cũng rất ngọt, một đường trôi chảy, mượt như nhung. Thời thượng nội dung như thế nào thì tôi cũng không còn nhớ rõ, chỉ nhớ khi đọc thấy cái mở đầu gợi nhắc rất nhiều tới một mở đầu của Maugham, quyển nào đó không nhớ rõ, hình như Lưỡi dao cạo, có nhân vật chàng tuổi trẻ suốt ngày nằm trên ghế sofa đọc sách trong một cái club đông người.

Càng đọc thì càng thấy Mai Thảo là một bậc thầy về cốt truyện, sắp xếp chi tiết, pha độc thoại nội tâm rất đủ liều lượng, những ái ân nồng nực đều diễn ra theo lối một bộ phim thời kỳ xa xưa, nghĩa là cứ sắp gay cấn thì chuyển cảnh:)

Nhưng Mai Thảo không phải là một giọng văn quá mới mẻ, quá cách mạng. Con người cách mạng của Sáng Tạo phải là Thanh Tâm Tuyền. Một bài điểm sách ngay sau khi Thanh Tâm Tuyền in Tôi không còn cô độc đã rất chính xác khi nói số kiếp của Thanh Tâm Tuyền là phải cách mạng, ngừng cách mạng là thôi không còn Thanh Tâm Tuyền nữa. Còn Mai Thảo (“văn chương viễn mơ” như sau này sẽ bị nhiều người, nhất là nhóm Đất Nước xách mé) rất gần Tự lực Văn đoàn. “Để tưởng nhớ mùi hương” là trích từ Thạch Lam, và các nhân vật luôn bị giằng xé bởi tâm trạng muốn đoạn tuyệt, muốn thoát ly, lên đường, tuy rằng có pha thêm mùi phấn son đậm đặc và mùi của buông thả.

Cái mới duy nhất của Mai Thảo mà tôi nhìn thấy là một vài cách dùng từ. Ở Mai Thảo, cái đặc trưng lồ lộ là những rút gọn từ ngữ: sẽ không là “một niềm cay đắng” mà “một cay đắng”, sẽ không là “một nỗi kinh ngạc” mà “một kinh ngạc”, sẽ không là “một sự rã rời” mà “một rã rời”.

Đoạn mở đầu Tình yêu màu khói nhạt là một ví dụ:

“Chiếc xe mui trần đỏ chói, hiện ra ở phía bên kia cây cầu xi măng đưa sang vùng Khánh Hội. Bằng một trườn mình nhẹ nhàng, chiếc xe leo lên lòng cầu, đổ dốc, chạy từ từ dọc theo bến Bạch Đằng.”

“một trườn mình”, rất Mai Thảo.

Một đoạn sau:

“Người đàn ông trên xe nhíu mày lại, chưa nhận diện được người vừa lớn gọi tên mình là ai.”

“lớn gọi”, cực kỳ Mai Thảo.

Những lúc tập trung miêu tả tâm trạng, thủ pháp của Mai Thảo là thủ pháp của Thơ Mới, của sự liệt kê (như là Xuân Diệu trong bài “Vội vàng”), của phép lặp.

Đây là một câu trong Để tưởng nhớ mùi hương mà tôi nhớ mãi: “Nàng khỏe mạnh, nhưng một khỏe mạnh đầy uyển chuyển.”