Phàm đã viết phê bình văn học, người ta không tránh được xu hướng, thậm chí là ham muốn, xếp loại các tác phẩm. Phê bình văn học gần như đồng nghĩa với sắp xếp, định giá, nhưng cũng có người nói rằng xét về từ nguyên, từ “phê bình” (critique) có chung gốc Latinh với từ “tội ác” (crime).
Albert Thibaudet (1874-1936), nhà phê bình Pháp nổi tiếng đầu thế kỷ 20, từng dùng từ “sinh lý học” khi phân loại phê bình văn học. Theo Thibaudet có tổng cộng ba loại: phê bình của nhà báo, phê bình chuyên nghiệp (hay phê bình của các giáo sư) và phê bình của nghệ sĩ (tức bản thân nhà văn viết phê bình văn học). Ngoài sự phân loại đã trở thành kinh điển (và rất thành công) này, trong lĩnh vực văn học sử Thibaudet còn có ý tưởng (không mấy thành công) là chia lịch sử văn học thành các giai đoạn theo thế hệ nhà văn, rất giống với cách làm của linh mục giáo sư Thanh Lãng (1924-1978), tác giả bộ Phê bình văn học thế hệ 1932 (1972) và có dự định viết cả một bộ sách đồ sộ trên chục cuốn về lịch sử văn học Việt Nam theo thế hệ, trong đó đã in được cuốn Văn học Việt Nam: thế hệ dấn thân yêu đời (1969).
Ngày nay, chúng ta chứng kiến và sống cùng nhiều loại phê bình văn học lừng danh, với những tên gọi gần như đã hóa ra thành ngữ hằng ngày trên báo chí; đó là trường hợp cụm từ “phê bình xu phụ” của Lại Nguyên Ân và “phê bình du kích” của Nguyễn Hoàng Văn. Gần đây hơn cả có người còn đề xuất cái tên “phê bình khảo cổ”, có lẽ vì quá hoảng sợ trước dung lượng lịch sử đang ngày một gia tăng trong phê bình văn học.
Nhìn ngược trở lại lịch sử, ngay trước 1945 đã có một nhà phê bình từng nảy ra ý tưởng xếp hạng, phân loại phê bình: Kiều Thanh Quế, trong cuốn Phê bình văn học (tủ sách Phê bình của NXB Tân Việt, 1942), khi đề cập tới các hiện tượng phê bình theo ông là không hay, không “sáng tạo”, những “hạng bình-giả tạp nạp”, đã gọi ra năm cái tên: Phê bình quảng cáo (“chỉ giá trị bằng những lời rao của bọn trẻ bán báo”; hạng phê bình “mỗi mỗi đều chỉ trích”; Phê bình vì hiềm riêng (ví dụ như Trương Tửu đối với Tự lực Văn đoàn); Phê bình “giễu cợt trò hề”; “hạng bình giả dung hòa”, không khen hẳn, cũng không chê hẳn.
Nhà phê bình miền Nam tài năng nhưng yểu mệnh Kiều Thanh Quế (sinh năm 1914, mất năm 1947) là một trong những tiếng nói sớm và mạnh mẽ ủng hộ dịch thuật (bản thân ông cũng bắt tay vào dịch một số tác phẩm), đồng thời góp lời phê phán những lối phê bình xấu xa “mang sự rầu lòng đến cho nồi canh”. Kiều Thanh Quế chủ yếu đăng bài trên tạp chí Tri tân. Với Kiều Thanh Quế, các nhà phê bình đáng khen của thời ấy phải kể tới Hải Triều (khi phê bình Nguyễn Công Hoan) hay Phan Văn Hùm (khi phê bình thơ của Xuân Diệu), còn các nhà phê bình “tạp nạp” bị ông chỉ đích danh có thể kể Trương Tửu, Lê Ta (tức Thế Lữ).
Các nhà phê bình chuyên đi phân loại, sắp xếp văn phẩm, nhưng chính bản thân họ cũng có lúc bị phân loại, định giá một cách nghiệt ngã.
——————–
Cái này tôi viết khá lâu trước khi đọc Nguyễn Hưng Quốc viết về “các hình thức phê bình”. Quan điểm của tôi về vấn đề phê bình trong quan hệ với lý thuyết, hay lý thuyết có vai trò gì trong phê bình, thực sự rất khác. Cái đó thì nói sau vì cũng không dễ diễn đạt. Còn vấn đề quan trọng nhất của phê bình văn học Việt Nam hiện nay theo tôi chính là văn học sử.