Mua vui

Hự, ở đây có bác nào thuộc Kiều không?

Tôi muốn thử nhìn một số việc hẳn theo một cách khác, nên đánh quả liều ghép ứ hự của Nguyễn Công Trứ với cái ông nhà thơ cùng quê nhà cách có vài bước chân, là ông Nguyễn Du.

Câu vừa xong ở trên cũng chỉ là để đánh lạc hướng thôi : )

Bây giờ thử nhìn một cách khác: nếu thử không coi Nguyễn Du đương nhiên là đại thi hào dân tộc, thì Nguyễn Du có thể là gì? Cái từ đương nhiên này đặc biệt là thảm khốc: chắc chắn rất rất nhiều người cả đời đọc được dăm ba trích đoạn Kiều khi gặp ai đó hỏi nhà thơ vĩ đại nhất của nước mày là ai cũng nhanh chóng trả lời: Nguyễn Du, cho xong chuyện.

Coi luôn Nguyễn Du là một con số thành công chui ra khỏi lồng quay của món xổ số lịch sử đi, ta sẽ thấy mọi chuyện khác về cơ bản. Món xổ số quay lồng này hẳn những ai sống ở Việt Nam thời những năm 80-90 vừa rồi đều nhớ, trên tivi trước chương trình Những bông hoa nhỏ bảy giờ tối có cái chương trình Xổ số kiến thiết nhàm chán đến vô cùng nhưng có lẽ là chương trình có lượng người xem cao nhất thời ấy, món ăn không thể thiếu với triệu triệu con mắt to tướng mọc trên những bộ mặt choắt lại vì đói. Truyện cảnh giác thời đó rất hay có cốt truyện là một tay gian giảo bỏ tiền thuê mấy thằng bé con quay lồng để dàn xếp kết quả.

Ở trường hợp Nguyễn Du thì chắc là không có tay gian giảo nào cả, chắc chắn rồi, nhưng vẫn có thể coi là một cuộc xổ số lịch sử. Nguyễn Du là một nhân vật thuộc “Hồng Sơn văn phái” và nhất là thuộc vào bộ ba Nguyễn Du-Nguyễn Thiện-Nguyễn Huy Hổ, ba người đều có họ với nhau. Ba người có ba tác phẩm: KiềuHoa Tiên, và Mai Đình mộng ký.

Hoa Tiên thì cứ tạm bỏ qua một bên, vì nó cũng có địa vị nhất định trong văn học sử Việt Nam, nhưng Mai Đình mộng ký thì đen đủi hơn nhiều – nó có kết quả quay xổ số không mấy thuận lợi. Trước 1945, Hoàng Xuân Hãn khảo về tác phẩm này, bài đăng trên Thanh nghị, sau đó một thời gian NXB Sông Nhị (1951) in lại toàn văn tác phẩm trong tủ “Loại văn cổ” và chú thêm dòng “Chương trình trung học”, có lẽ là để dùng trong nhà trường, Hoàng Xuân Hãn biên tập và trích dẫn, Nghiêm Toản chú thích.

Mai Đình mộng ký có dung lượng bằng khoảng một phần mười Kiều, nhưng phải nói là một tuyệt tác, không câu nào kém, và đặc biệt hơn cả, là vô cùng gần về mọi mặt với Kiều. Những lời chú trong bản Sông Nhị cũng liên tục dẫn chiếu sang Kiều.

Mở đầu là mấy câu này:

Trăm năm là kiếp ở đời,
Vòng trần này đã mấy người trăm năm
Cuộc phù sinh có bao lăm
Nỡ qua ngày bạc mà lầm tuổi xanh
Duyên tế ngộ hội công danh
Là hai, với nghĩa chung tình là ba
Đều là đường cái người ta
Là cầu noi đó, ai qua mới từng
Tình duyên hai chữ nhắc bằng
Há rằng duyên chướng, há rằng tình si
Chuyện xưa còn có sá chi
Đêm thanh vui chén muốn ghi nỗi mình
Cho hay rằng giống có tình
Chiêm bao lẩn quất năm canh lần lần

Đoạn cuối càng gần với Kiều hơn:

Đương khi từ tạ khúc nhôi
Giang thôn đâu động tiếng còi mục nhi
Trong thuyền sực tỉnh đôi khi
Tấc riêng dồn dã khôn suy tin ngờ
Nào đình nào khách nào thơ
Bấy giờ hồ điệp, bây giờ Trang sinh
Cũng trong hai chữ chung tình
Sao người thường bấy, mà mình quái thay
Tài tình xem lại xưa nay
Kiếp người may với chẳng may cũng nhiều
Cuộc đời mây nổi nước triều
Tình bao nhiêu, nợ bấy nhiêu, hay gì
Lấy điều mộng ảo mà suy
Một thì là giác, hai thì là mê
Mê chăng một lúc đi về
Giác thì duyên ấy còn ghê sau này
Thấy đây còn biết từ đây
Bao giờ sao nữa lại hay bấy giờ
Hoàn thiên tẩu bút một thơ
Quê đâu chữa đó là nhờ tao nhân

Dám chắc là đưa những câu này cho những người chỉ đọc qua Kiều là các bác tưởng Kiều (như) ngay : ), thậm chí ngoài hai đoạn trên còn có vô số câu coi như là không khác gì luôn:

“Thiều quang chín chục, vân yên một chèo”
“Giọt mưa cổ thụ, tiếng gà cô thôn”
“Thảnh thơi gió mát trăng thanh”
“Này này quế trạo lan tương
Ví đua Xích Bích, chi nhường Đông Pha”
“Băng chừng dạo bước tới nơi”
“Xông mai chợt động bóng người
Vẻ lan vừa chán vội dời gót sen”
“Hương thừa còn phảng phất đâu trước đình”

etc.

Vấn đề này, tôi thấy khá là tương tự với chuyện cách đây vài năm có ai đó nói: Hoài Thanh viết như thế như thế, nhưng trong cùng nhóm “Văn chương và hành động” thì Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư cũng như thế như thế, nhưng mà rồi thì Lê Tràng Kiều đâu, mà Lưu Trọng Lư đâu, sao chỉ còn trơ lại ông Hoài Thanh. Xổ số lịch sử quay thế nào mà lại ra như thế? Hồi ấy tiếc cái là hình như tác giả bài viết ấy lại quy về vấn đề đạo văn, là cái chả liên quan gì cả. Đạo văn giờ đây đã trở thành một cái mốt, ý tôi là tố cáo nhau đạo văn giờ đây là một cái mốt, một thứ chẳng giúp ích được gì, thậm chí nhiều lúc cũng chẳng liên quan.

Tóm tắt lại: giờ thì sao, Nguyễn Du-Nguyễn Thiện-Nguyễn Huy Hổ là như thế như thế, tại sao chỉ một là đại thi hào dân tộc. Việc này nếu không phải là bất khả tư nghị thì cũng khó giải thích gần như là chuyện bỗng nhiên nhìn thấy gấu trắng ở đường xích đạo.

Và chuyện “mua vui” nữa. Ở trên blog này có lần bác nào đó comment đại ý tại sao chuốc sầu vạn đại cho người ta mà lại nói “mua vui cũng được…”? Vì tôi chưa có tiền mua sách của cụ Lít nên cũng không biết người ta đã bàn những gì về vụ này trong lịch sử (bạn nào có nhã ý tặng sách của cụ Lít thì xin đa tạ hihi). Bây giờ thử nghĩ nếu chuyện mua vui ấy không phải là một sự khiêm tốn nhún nhường, nói dzậy mà không phải dzậy, mà đúng là mua vui thật thì sao nhỉ. Hi, biết đâu với Nguyễn Du, hay với Nguyễn Huy Hổ (vì cũng viết “quê đâu chữa đó”), văn chương đúng là một thứ mua vui, mà đã là mua vui thì buồn bã sầu thảm hay vui tươi phơi phới cũng vậy mà thôi, bột mì bột gạo bột mạch xay lên nghiền nhỏ rồi cũng thành bánh thành cháo cả : )

Tôi mới làm được một bài haiku muốn đưa ra mua vui nhưng ngượng lắm không dám khoe sợ lại bị chê là quê:

Gió thổi qua tán lá
Những cây anh đào nở hoa làm tôi muốn
Cởi hết ra

https://nhilinhblog.blogspot.com/2010/04/mua-vui.html