Dành cho các bác nghiên cứu lịch sử âm nhạc VN

Tôi mới mò ra được một loạt bài mang tên Quá trình tiến triển của lịch sử nền nhạc Việt của Nguyễn Duy Diễn và Phạm Vinh, giáo sư trường trung học Văn Lang và trường Bắc Bình Vương, đăng gần 10 kỳ trên một tờ tạp chí Hà Nội trước 1954, loạt bài nhiều tài liệu phong phú. Nếu hai nhà nghiên cứu âm nhạc Jason Gibbs và Nguyễn Trương Quý còn chưa có thì tôi sẵn sàng cung cấp. Nguyễn Duy Diễn sau này vào Sài Gòn dạy học, viết rất nhiều sách thuộc dạng sách giáo khoa văn học.

Mang tài liệu ra để câu bộ sách của bác Quý:) Trong trilogy này tôi đã có lần review quyển Ăn phở rất khó thấy ngon. Tuy rằng bác Quý đã hứa sẽ tặng nhưng cứ thế mà nhận thì cũng ngại, đấy bác xem có mấy cái tài liệu em mang đổi, bác tặng sách em nhá :d

——————

(đợi lát viết tiếp)

Tiếp đây:

Lẽ dĩ nhiên, ở post trước về Coetzee, khi nhắc tới các nhà văn đồng thời là nhà tiểu luận siêu hạng, tôi còn bỏ qua rất nhiều người. Các nhà văn Pháp luôn luôn viết tiểu luận cực hay, nhưng chắc ít người đọc: Valéry, Gide, Du Bos, Paulhan, Bataille, Gracq. Và còn một người nữa hiện nay vẫn đang sống: Orhan Pamuk.

Tập Other Colors. Essays and a story có lời nói đầu vô cùng hay, tôi dịch dưới đây.

Lời nói đầu

Đây là một cuốn sách được tạo nên từ các ý tưởng, hình ảnh, phân mảnh cuộc sống vẫn còn chưa tìm ra con đường đi vào những tiểu thuyết của tôi. Tôi đã xếp chúng cùng vào đây trong một chuỗi văn liền mạch. Đôi khi tôi thấy thật kinh ngạc vì đã không có khả năng đưa vào trong tác phẩm hư cấu của tôi mọi suy nghĩ mà tôi cho là xứng đáng khám phá: những thời khắc kỳ cục của cuộc đời, những xen cảnh nhỏ bé của cuộc sống hằng ngày mà tôi muốn chia sẻ với những người khác, và những từ ngữ phát ra từ tôi với sức mạnh và niềm vui khi có dịp sung sướng. Một số phân mảnh có tính cách tự truyện; một số tôi viết rất nhanh; những phân mảnh khác tôi để sang một bên khi mà sự chú ý của tôi đang trôi nổi đâu đó. Tôi quay trở lại với chúng theo cái cách rất giống cách tôi quay trở lại với những bức ảnh cũ, và – mặc dù hiếm khi nào tôi đọc lại những cuốn tiểu thuyết của mình – tôi thấy rất thích khi đọc lại các tiểu luận này. Điều tôi thích nhất là những khoảnh khắc khi chúng hiện lên bên trên tính chất tạm bợ, khi chúng có nhiều ý nghĩa hơn là đáp ứng đòi hỏi của các tờ tạp chí và tờ báo đã đặt hàng, nói nhiều về những quan tâm, hào hứng của tôi hơn là tôi từng có ý định vào lúc ấy. Để miêu tả những epiphany, những khoảnh khắc đáng kinh ngạc khi theo một cách nào đó chân lý được soi rọi, Virginia Woolf đã có lần sử dụng cụm từ “những khoảnh khắc của tồn tại”.

Từ 1996 đến 1999 tôi viết hằng tuần cho tờ Con bò, một tạp chí chuyên về chính trị và hài hước, và cũng tham gia minh họa bài nữa. Chúng là những tiểu luận ngắn êm ái viết một lèo, và tôi rất thích nói về con gái tôi và các bạn tôi, thăm dò mọi vật và thế giới bằng đôi mắt tươi mới, nhìn thế giới bằng từ ngữ. Theo thời gian, càng ngày tôi càng ít coi tác phẩm văn chương là kể lại thế giới, mà coi nó “nhìn thế giới bằng từ ngữ.” Kể từ thời điểm khởi sự dùng từ ngữ như là màu sắc trong một bức tranh, một nhà văn sẽ bắt đầu thấy thế giới tuyệt diệu và đáng kinh ngạc đến thế nào, và anh ta sẽ đào sâu hoắm vào ngôn ngữ để tìm ra giọng riêng cho mình. Để làm được như vậy anh ta cần giấy, một cây bút, và sự lạc quan của một đứa trẻ lần đầu tiên nhìn vào thế giới.

(vẫn còn tiếp, dài :d)

Tiếp

Tôi tập hợp những bài này để tạo ra một cuốn sách hoàn toàn mới với trọng tâm là tự truyện. Tôi bỏ đi nhiều phân mảnh và rút ngắn lại nhiều phân mảnh khác, chỉ giữ lại một số đoạn từ hàng trăm bài báo và điều động một ít tiểu luận đến đóng ở các vị trí kỳ cục nhưng có vẻ phù hợp với kết cấu của câu chuyện này. Chẳng hạn, ba bài diễn văn từng được in cùng trong một tập sách riêng bằng tiếng Thổ và nhiều thứ tiếng khác dưới nhan đề Chiếc va li của cha tôi (có bài diễn từ nhận giải Nobel cùng tên, bài “In Kars and Frankfurt”, bài diễn văn tôi đã đọc nhân dịp Giải thưởng Hòa bình Đức, và “The Implied Author”, bài diễn văn tôi đọc tại hội thảo Puterbaugh) trong đây nằm ở các phần khác nhau nhằm phản ánh cùng cái câu chuyện mang tính cách tự truyện ấy.

Bản Other Colors này được dựng nên từ cùng bộ khung giống như cuốn sách cùng tên đã in tại Istanbul vào năm 1999, nhưng cuốn trước mang hình thức một tuyển tập, còn cuốn này có dáng hình của một chuỗi phân mảnh, khoảnh khắc, suy nghĩ có tính cách tự truyện. Nói về Istanbul, bàn về những cuốn sách, tác giả, bức tranh ưa thích của tôi, với tôi đây vẫn luôn luôn là một cái cớ để nói về cuộc đời. Các bài New York của tôi được viết vào năm 1986, khi lần đầu tiên tôi tới thành phố, tôi đã viết chúng nhằm ghi lại những ấn tượng đầu tiên của một người nước ngoài, viết cho độc giả Thổ Nhĩ Kỳ. “To Look out the Window,” cái truyện nằm ở cuối sách, có tính cách tự truyện mạnh đến mức tên của nhân vật chính hoàn toàn có thể là Orhan. Nhưng người anh trai trong truyện, cũng như các ông anh trai khác trong mọi câu chuyện của tôi, ác độc và bạo chúa, không có chút liên quan nào tới ông anh trai thực của tôi, Sevket Pamuk, sử gia kinh tế xuất chúng. Khi cấu tạo xong cuốn sách, tôi bối rối nhận ra rằng mình có một mối quan tâm đặc biệt và lúc nào cũng rất sẵn sàng đối với các thảm họa thiên nhiên (động đất) và thảm họa xã hội (chính trị), thế nên tôi bỏ bớt đi một số bài viết chính trị có màu đen tối. Tôi vẫn hằng tin bên trong tôi ẩn trú một kẻ nghiện viết hau háu và ghê gớm – một sinh thể không biết thế nào là viết cho đủ, kẻ lúc nào cũng biến cuộc sống thành từ ngữ – và để làm cho kẻ ấy hạnh phúc tôi cần tiếp tục viết. Nhưng khi tạo hình cho cuốn sách này, tôi phát hiện ra là kẻ nghiện viết có thể hạnh phúc hơn nhiều, ít đau đớn hơn vì chứng bệnh liên quan tới viết của hắn. Tôi rất mong độc giả nhạy cảm dành nhiều quan tâm tới công việc sửa chữa sáng tạo [không hiểu rõ lắm, hình như “creative editing” ở đây muốn nói một ý gì khác] của tôi cũng ngang bằng với nỗ lực mà tôi bỏ vào bản thân việc viết.

Tôi không hoàn toàn cô độc với tư cách là người rất ngưỡng mộ nhà văn-triết gia người Đức Walter Benjamin. Nhưng để gây tức tối cho một người bạn tôi quá mức sùng bái ông (bạn tôi dĩ nhiên là một người trong giới hàn lâm), thỉnh thoảng tôi hỏi cô, “Ở cái ông nhà văn này có cái gì vĩ đại thế? Ông ấy viết xong được có một vài quyển sách, ông ấy có nổi tiếng thì cũng không phải bởi vì những gì ông ấy đã hoàn thành mà là vì những gì ông ấy không làm sao mà hoàn chỉnh cho nổi.” Bạn tôi đáp tác phẩm của Benjamin, cũng như bản thân cuộc sống, không có đường ranh giới và do đó có tính cách phân mảnh, đó cũng chính là lý do khiến cho rất nhiều nhà phê bình văn học từng cố hết sức để mang lại nghĩa cho các tác phẩm ấy, giống hệt như cách họ làm với cuộc sống. Và lần nào tôi cũng mỉm cười mà nói, “Một ngày nào đó tôi sẽ viết một cuốn sách cũng chỉ gồm toàn các phân mảnh.” Cuốn sách ấy đây, được đặt trong một bộ khung nhằm gợi ý tới một trung tâm mà tôi từng cố che giấu: tôi hy vọng độc giả thích thú cái việc suy tưởng cái trung tâm ấy thành tồn tại.

—————

(hết lời nói đầu rồi, nhưng entry này vẫn chưa hết, thế mới máu :d)

Tiếp nữa

Nhân vừa đọc bên nhà Mr. Tin Văn, muốn nói thêm là cái mơ ước viết một cuốn sách gồm toàn trích dẫn đã được Paul Auster thực hiện (something into being, nhẩm lại để học idiom) ở The Invention of Solitude. Đang rất sốt ruột chờ quyển này em Z. sắp mang về cho, trước đây tôi mới đọc bản tiếng Pháp, dịch giả (Vacher thì phải, đã có lần tôi bắt tay tại Buchmesse :d) phải nhờ chuyên gia đi tìm trích dẫn.

Bài của Pamuk hấp dẫn tôi nhất chính là đoạn kết nói về Benjamin. Một điểm nữa hấp dẫn tôi, ngoài cái ý tưởng độc đáo về việc essay cũng có thể có tính cách tự truyện, là ông ấy nói rất thích đọc lại các essay mình viết, trong khi fiction thì gần như chẳng bao giờ. Very good point:)

Bài về Benjamin của Coetzee khi đưa vào Inner Workings đã được đổi tên, thành “Walter Benjamin, the Arcades Project”. Arcade cũng là một khái niệm trung tâm trong suy tư của Benjamin.

—————

(vẫn chưa hết, kinh chuuuuuuuưa :d)

Lại tiếp

Bỏ thuốc lá

Tôi bỏ thuốc được 272 ngày rồi. Tôi nghĩ giờ thì mình đã quen với việc đó. Nỗi cồn cào của tôi đã nguôi ngoai, tôi không còn cảm thấy như thể một phần cơ thể mình bị cắt rời. Không, phải sửa: tôi vẫn không ngừng cảm thấy nỗi thiếu, tôi không ngừng cảm thấy như là đang bị tách khỏi cái toàn thể tôi, chỉ là giờ đây tôi đã thích nghi với việc nghĩ theo hướng đó; nói chính xác hơn, tôi đã chấp nhận thực tại cay đắng.

Tôi sẽ không bao giờ hút thuốc lại, không bao giờ hết.

Tôi nói điều này, thế nhưng tôi vẫn có những giấc mơ ngày trong đó tôi hút thuốc. Nếu tôi nói các giấc mơ ngày ấy bí mật lắm, đáng sợ lắm, rằng ta giấu giếm chúng khỏi bản thân chúng ta… thì bạn có hiểu được chăng? Dù thế nào, ngay giữa một giấc mơ ngày như vậy, đang định làm bất kỳ việc gì vào đúng thời điểm đó, như thể là xem bộ phim-giấc mơ của tôi chầm chậm tiến đến đỉnh điểm, tôi cảm thấy sung sướng hệt như lúc tôi châm một điếu thuốc.

Đó chính là mục tiêu chủ chốt của những điếu thuốc lá trong đời tôi: làm chậm lại trải nghiệm về khoái lạc và đau đớn, ham muốn và thất bại, buồn và vui, hiện tại và tương lai; và ở bên trong mỗi cái, tìm ra những con đường và lối đi tắt mới. Khi các khả năng ấy biến mất, con người ta sẽ cảm thấy gần như là bị trần truồng. Bị tước bỏ mọi thứ và bị tuyệt vọng.

Một lần tôi lên một cái taxi, tài xế hút thuốc không ngừng, bên trong xe cuồn cuộn một thứ khói tuyệt đẹp. Tôi bắt đầu hít thứ khói ấy vào người.

“Xin lỗi nhé,” người tài xế nói. Anh ta hạ cửa kính xuống.

“Đừng,” tôi nói, “cứ đóng cửa lại đi. Tôi bỏ thuốc rồi.”

Có thể rất lâu tôi không cảm thấy thèm thuốc, nhưng khi đã lên cơn thèm, thì cơn thèm ấy xuất phát từ thẳm sâu trong con người tôi.

Khi đó tôi được nhắc nhở về một bản thân đã bị lãng quên, một bản thân bị phủ lấp bởi các loại thuốc uống, sản phẩm, cảnh báo liên quan tới sức khỏe. Tôi muốn được là cái con người khác ấy, Orhan mà tôi từng là, người hút thuốc, người chiến đấu chống Quỷ giỏi hơn rất nhiều.

Câu hỏi hiện ra khi tôi nhớ bản thân xưa cũ không phải là liệu tôi có nên châm một điếu thuốc hay không. Tôi không còn cảm thấy nỗi cồn cào hóa học ngày xưa. Chỉ là tôi nhớ bản thân xưa cũ, đúng cái cách tôi nhớ một người bạn thân thiết, một khuôn mặt; tất cả những gì tôi muốn là quay trở lại làm người tôi từng là. Tôi cảm thấy như thể mình bị buộc phải vận những thứ quần áo mà tôi không chọn, như thể người ta đã biến tôi trở nên một con người tôi chưa bao giờ muốn là. Nếu hút thuốc, tôi sẽ cảm thấy lại độ căng của đêm, những nỗi kinh hoàng của con người tôi nghĩ tôi từng là.

Khi mong muốn quay trở lại với bản thân cũ, tôi nhớ những ngày ấy tôi đã có những gần gũi mơ hồ với bất tử. Xưa kia, thời gian không trôi; những khi hút thuốc, có lúc tôi cảm thấy niềm hạnh phúc đó, hoặc niềm tuyệt vọng căng thẳng đó, lúc tôi nghĩ mọi thứ sẽ cứ giữ nguyên không thay đổi. Trong khi tôi thản nhiên hút điếu thuốc của mình, thế giới thật yên.

Rồi tôi bắt đầu sợ cái chết. Người hút thuốc ấy có thể ngã lăn ra chết bất cứ lúc nào; mọi thứ nghiên cứu đều rất thuyết phục về điểm này. Để tiếp tục sống, tôi phải phế bỏ kẻ hút thuốc để mà trở thành một ai đó khác. Điều này thì tôi đã thành công được. Giờ đây cái bản thân tôi từng từ bỏ đã đến nhập vào với Quỷ để kêu gào gọi tôi quay trở về những ngày thời gian không bao giờ nhúc nhích và không một ai chết cả.

Lời gọi này không hề làm tôi sợ.

Bởi, như bạn có thể thấy, viết – nếu bạn hạnh phúc vì viết – xóa bỏ mọi phiền muộn.

[kinh nghiệm hút thuốc, ngoài Zeno của Svevo và Pamuk ở đây, còn có một cái rất hấp dẫn của García-Marquez, trong hồi ký Sống để kể lại; tuy nhiên, GM lúc nào cũng bệnh chết lên được :d]

—————-

(vẫn chưa phải là lời cuối đâu nhé, vẫn còn đấy, khiếp thật, a really really long extase hic)

Tiếp theo và hết
(các bác may lắm ấy nhé, tôi đã định làm một quả bất tận không bao giờ kết thúc, nhưng thôi nghĩ lại, đằng nào các bác cũng sẽ chẳng chịu nổi nhiệt, hành hạ nhau quá đáng làm gì :d)

Tôi đã vứt bỏ một số quyển sách của tôi như thế nào

Trong trận động đất sau của hai trận động đất gần đây nhất – cơn động đất xảy ra tại Bolu vào tháng Mười một – ở một góc thư viện của tôi vang lên một tiếng động lớn; rồi các giá sách kẽo kẹt và rên rỉ mãi không thôi. Lúc bấy giờ tôi đang nằm trên giường trong căn phòng phía sau, một quyển sách cầm trên tay, nhìn ngọn đèn không chụp đung đưa trên đầu. Việc thư viện của tôi hợp lực với cơn giận dữ của trận động đất, việc nó xác nhận và tăng cường thông điệp của nó – điều đó khiến tôi thấy sợ, và những hăm dọa tận thế làm tôi tức tối. Điều tương tự cũng đã xảy ra trong những cơn dư chấn của những tuần lễ trước đó. Tôi quyết định trừng trị thư viện của tôi.

Đó chính là cách, với một ý thức rõ nét đến lạ thường, tôi đã rút 250 quyển sách từ mấy cái giá rồi đem vứt chúng đi. Giống như một sultan bước đi giữa đám nô lệ, chỉ tay vào những kẻ sẽ bị quất roi vào đít, giống như nhà tư bản trỏ vào những tên hầu sẽ bị tống khứ, tôi mau chóng thực hiện các lựa chọn. Cái mà tôi đang trừng trị là quá khứ của tôi, những giấc mơ tôi từng nuôi dưỡng trong mình khi tìm thấy những quyển sách ấy, cầm chúng lên, mua chúng, mang chúng về nhà, giấu giếm chúng, đọc chúng, vầy vò chúng với rất nhiều tình yêu, hình dung ra mình có thể nghĩ gì chừng nào đọc lại chúng trong tương lai. Suy nghĩ một chút, việc này không giống trừng trị lắm, mà giống giải phóng hơn.

Niềm hạnh phúc mà nó mang lại cho tôi? Đây là một nơi chốn thật tốt đẹp để khởi sự nói về những quyển sách và thư viện của tôi. Tôi muốn nói một vài điều về thư viện của tôi, nhưng tôi không muốn ca tụng nó theo cách thức một ai đó tuyên cáo tình yêu sách của mình chỉ nhằm mục đích chứng tỏ cho bạn thấy anh ta đặc biệt tới mức nào, cũng như có học vấn và tinh tế hơn bạn tới mức nào. Tôi cũng không muốn có dáng vẻ của những kẻ yêu sách phô trương hợm hĩnh nói cho bạn bọn họ đã tìm thấy quyển sách hiếm này quyển sách hiếm kia tại một hiệu sách cũ nhỏ trên các phố nhỏ của Praha. Mà tôi lại sống ở một đất nước coi kẻ-không-đọc-sách là một chuẩn mực và người đọc theo một cách nào đó là kẻ đầy khiếm khuyết, thế nên làm sao mà tôi lại không tôn trọng tình trìu mến, nỗi ám ảnh, những kỳ vọng của một số lượng ít ỏi người có đọc sách và dựng nên các thư viện giữa sự nhàm chán và buồn tẻ lan tràn. Nói vậy thôi, điều tôi muốn bàn ở đây không phải là tôi yêu sách đến mức độ nào, mà là tôi ghét chúng đến mức độ nào. Cách hay nhất và nhanh nhất để kể câu chuyện này là nhớ lại việc tôi đã vứt bỏ chúng như thế nào, và tại sao.

—————

(bài này còn khoảng gấp đôi trên đây nữa, hẹn các bác mấy tiếng nữa nhá)

Tiếp, nốt

Vì chúng ta – ở một mức độ nào đó – sắp xếp thư viện của mình sao cho bạn bè chúng ta nhìn thấy những quyển sách của chúng ta như là chúng ta muốn, một cách dễ dàng để vứt chúng đi là quyết định xem những quyển nào là những quyển chúng ta muốn, có thể nói vậy, giấu biến hoặc cấm chỉ hoàn toàn, bạn bè chúng ta sẽ không thể nhìn thấy. Chúng ta có thể ném rất nhiều sách đi nhằm giấu không cho ai biết là chúng ta từng coi trọng những thứ vớ vỉn đó. Nỗi ám ảnh đặc thù ấy cứ dai dẳng [to take hold có phải nghĩa này không nhỉ?] khi chúng ta từ tuổi thơ ấu chuyển sang tuổi thiếu niên rồi từ tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi trẻ. Khi anh trai tôi đưa cho tôi những quyển sách mà anh thấy ngượng vì đã đọc hồi còn nhỏ, và các bộ sưu tập đóng quyển những tạp chí bóng đá (như Fenerbahce) không còn hấp dẫn anh nữa, anh đã dùng một mũi tên mà giết hai con chim. Tôi cũng dùng đúng kỹ thuật đó để vứt bỏ nhiều tiểu thuyết Thổ, tiểu thuyết Liên Xô, những tập thơ dở, sách xã hội học, đấy là còn chưa kể các ví dụ tầm thường về văn chương làng xã, cùng các pamphlet khuynh tả mà tôi thu thập theo cùng cách thức với nhân vật chuyên viên lưu trữ trong Sách đen [The Black Book: rất tiếc là quyển này chưa được dịch ra tiếng Việt và cũng chưa có kế hoạch dịch ra tiếng Việt]. Theo cùng cách thức ấy, tôi ứng xử với những quyển sách khoa học phổ thông thỉnh thoảng tôi mua và các hồi ký phù phiếm nói về thành công này nọ, mà tôi không cưỡng được cứ đọc, cũng như nhiều tác phẩm dòng khiêu dâm đầy tinh tế, không có minh họa, trước tiên lòng đầy lo lắng chất chúng vào một xó rồi mới vứt đi.

Khi tôi quyết định vứt đi một quyển sách, niềm rộn ràng của suy giảm che giấu đi những bất bình sâu xa không hiển hiện ngay lập tức. Cái suy giảm không phải là ý nghĩ đáng lo ngại rằng quyển sách này (một Thú nhận Chính trị, một Bản dịch Tồi, một Tiểu thuyết Thời thượng, một Tuyển tập Trong đó Mọi Bài thơ Đều Giống nhau và Giống Mọi Bài thơ Khác) nằm trong thư viện của tôi, mà ở chỗ biết rằng đã từng có lúc tôi coi trọng quyển sách đó, đủ coi trọng để bỏ tiền mua nó, để nó nằm yên trên giá trong suốt nhiều năm, và thậm chí còn đọc vài đoạn trong đó. Tôi không xấu hổ về bản thân quyển sách, tôi xấu hổ vì đã từng có lúc coi nó là quan trọng.

Giờ thì đến vấn đề thực: Thư viện của tôi không phải là một nguồn cơn hãnh diện mà là nguồn cơn cho tự-trả-thù và áp bức. Cũng như những người tự hào vì học vấn của mình, đôi khi tôi cũng khoái trá nhìn vào những quyển sách ấy, lấy tay lướt qua chúng, và nhấc vài quyển ra để đọc. Hồi còn trẻ, tôi từng hình dung mình đứng phía trước những quyển sách của tôi, chừng nào đã trở thành nhà văn. Nhưng giờ đây việc đã bỏ thời gian và tiền bạc cho chúng, việc đã vác chúng về nhà như một tên cu li rồi giấu biến chúng đi chỉ còn là một nỗi khó ở tan nát cõi lòng; cái làm cho tôi thấy tệ hại nhất là việc biết rằng tôi từng “gắn bó” với chúng. Khi nhiều tuổi thêm, có lẽ tôi đã bắt đầu vứt sách đi để tự thuyết phục mình rằng tôi có sở hữu sự khôn ngoan vẫn có ở chủ một thư viện gồm toàn những quyển sách mà anh ta đã đọc. Nhưng tôi vẫn tiếp tục mua sách với tốc độ cao hơn tốc độ vứt chúng đi. Thế nên nếu so sánh thư viện của tôi với thư viện của một người bạn ham đọc tại một đất nước phương Tây, hẳn anh ta có ít sách hơn tôi nhiều. Thật may mắn, với tôi điều tiên quyết không phải sở hữu những quyển sách hay, mà là viết ra chúng.

Tiến bộ của một nhà văn sẽ phụ thuộc ở một mức độ lớn vào việc từng đọc những cuốn sách tốt. Nhưng để đọc tốt thì không phải là chậm rãi và cẩn trọng đưa mắt và đưa tâm trí đi qua một văn bản: đó còn là nhập bản thân đến độ tuyệt cùng vào tâm hồn của nó. Chính vì vậy trong đời chúng ta chỉ đem lòng yêu một ít cuốn sách mà thôi. Ngay thư viện cá nhân sành sỏi tinh tế nhất cũng chứa một lượng sách ở vào thế đối đầu với nhau. Những hờn ghen giữa đám sách ấy ban cho nhà văn giỏi sáng tạo một sự u sầu nhất định. Flaubert đã đúng khi nói rằng ai đó đọc mười cuốn sách đủ cẩn thận đã có thể trở thành một nhà hiền triết. Như một quy luật, phần lớn con người ta không làm việc ấy, và đó chính là lý do khiến họ sưu tầm sách và trưng bày thư viện của mình. Bởi sống ở một đất nước gần như trống không sách và thư viện, ít nhất tôi cũng có cho mình một cái cớ. Mười hai nghìn quyển sách trong thư viện của tôi là cái khiến cho tôi coi công việc của tôi là nghiêm túc.

Trong số chúng có lẽ cũng có một chục mười lăm quyển tôi thực sự yêu, nhưng tôi không lụy tình với cái thư viện này. Nếu giống như là một hình ảnh, một bộ sưu tập đồ gỗ, một đống bụi, một gánh nặng hữu hình, thì tôi chẳng hề thích nó một tẹo nào. Việc cảm thấy thân thiết với các nội dung của nó cũng giống như là có quan hệ với các phụ nữ có phẩm cách lớn nhất là lúc nào cũng sẵn sàng yêu bạn; điều tôi yêu nhất ở những quyển sách của tôi là tôi có thể nhấc chúng lên để đọc bất kỳ lúc nào tôi muốn.

Bởi e sợ “gần gũi” cũng ngang bằng với e sợ tình yêu, tôi chào đón mọi cái cớ để vứt bớt sách đi. Nhưng trong vòng mười năm qua tôi đã tìm ra một đường lối mới, trước đây chưa từng bao giờ có. Tác giả của những quyển sách tôi mua hồi trẻ, giữ lại và thậm chí thỉnh thoảng còn đọc, bởi vì họ là các “nhà văn dân tộc của chúng ta,” và ngay một vài nhà văn tôi đọc trong những năm về sau – những năm gần đây họ thông đồng với nhau để tạo lập bằng chứng cho thấy đống sách của tôi tệ hại đến chừng nào. Thoạt tiên tôi sung sướng vì họ coi trọng tôi. Nhưng giờ đây tôi thích thú vì đã có một cái cớ thậm chí còn tốt hơn một trận động đất để ném bỏ họ khỏi thư viện của tôi. Đó chính là cách thức các giá văn học Thổ Nhĩ Kỳ của tôi nhanh chóng mất đi những tác phẩm của các nhà văn ngu ngơ, tầm thường, thành công ẽo uột, hói, đực, thoái hóa ở độ tuổi từ năm mươi đến bảy mươi.

[tôi đã rất thích bài này khi lần đầu tiên giở lướt Other Colors cách đây vài năm; vấn đề này thực sự nghiêm trọng đối với những người có nhiều sách trong nhà, ngoài những điều nghiêm trọng khác như động đất, nước, lửa và mối]

[câu cuối cùng của bài viết cho thấy Pamuk có một vấn đề cực kỳ giống với vấn đề hiện nay của tôi; sẽ có lúc tôi đủ… ờ… sarcastic để nói ra đúng cái điều này]