Thật ra thì Phong hóa đã làm gì để có được danh tiếng và tiếng tăm như vậy trong lịch sử báo chí Việt Nam? Ở đây tôi trích lục lại một số bông hoa tươi thắm nhất :d trong kho tàng chửi của Phong hóa, trích lục từ phần trích lục của Thanh Lãng trong Phê bình văn học thế hệ 1932, làm thế cho nhanh vì ngồi lục lại Phong hóa để chép thì ngại lắm.
Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh
Một sừ béo núng rung rinh
Một sừ lểu đểu như hình cò hương
Không vốn liếng chẳng ruộng nương
Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu
Bây giờ đang sỉa sói nhau:
Người câu “lập hiến”, kẻ câu “trực quyền”
– “Thưa các ngài, thực vi tiên
Muốn xem chiến đấu quẳng tiền vào đây”
“Báo Phong-Hóa ra buổi sớm, buổi chiều đi chơi rong phố, nghe thấy trẻ con hát:
Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh
Hai câu phong dao có lọt vào tai hai ông lãnh tụ hai đảng lập hiến và trực trị, chắc hai ông tài cũng… mát dạ.
Ông Quỳnh có lẽ chưa vừa lòng. Ông có giận, xin đừng giận người làm thơ, nên giận cái người đặt ra điệu thơ sáu tám. Chả nhẽ lại viết, thứ nhất sừ Uỳnh, thứ hai sừ Ĩnh.”
“Mừng cụ Hoàng Tăng-Bí tăng phúc, tăng lộc, tăng thọ, tăng… bí.
Mừng cụ Huỳnh-Thúc-Kháng dùng chữ nho nhiều bằng năm bằng mười năm ngoái.
Mừng ông Nguyễn-Khắc-Hiếu say bằng năm bằng mười năm ngoái.
Mừng ông Nguyễn-Trọng-Thuật sinh thêm được năm bảy người An-Nam mới.
Mừng ông Dương-bá-Trạc đầu năm học xong tiếng Ăng-Lê, giữa năm học xong tiếng Quảng-Đông, cuối năm nói truyện ông Đinh-bộ-Lĩnh.
Mừng búi tó ông Nguyễn-văn-Tố năm nay được vào viện Bác-cổ Hà-Nội.”
“Trứng vịt khó tiêu, không biết còn cái gì khó tiêu hơn nữa không? Hỏi thế tất ai cũng buồn sắc mặt mà đáp lại rằng: Có văn của cụ Hoàng-tăng-Bí.
Nhưng văn cụ bảng tuy có bí, nhưng chưa đến nỗi bí như văn ông cử Dương-bá-Trạc, tự là Tuyết-Huy, văn cụ Hoàng bí vì thể văn cụ dài lướt thướt như cái áo thụng nhưng cụ còn có tư tưởng. Đến như ông Dương-Bá-Trạc, văn ông giống như cái thùng sắt tây, ngoài bóng trong rỗng không có tư tưởng gì. Vì thế văn ông lại bí hơn một bực mà bí lại bí “rỗng”.
Ngày xưa, Chu Du 3 lần hộc máu, ngẩng cổ lên giời mà than rằng:
“Giời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”
Độc giả báo chí nước Nam mấy lần ngủ gật cũng nên ngáp mà than rằng:
Giời đã sinh ra cụ bảng Hoàng, sao còn sinh ra ông cử Dương?”
“Bà Tương Phố xưa làm bài thơ “giọt lệ thu” đăng trong Nam-phong, ai cũng khen là lâm ly, sầu thảm, thảm thiết, ảo não, và buồn rầu.
Tính ra bài văn đó có 61 chữ vừa “than ôi”, “ôi”, và “lệ”, chia ra như sau này:
29 chữ “than ôi”
18 chữ “ôi”
14 chữ “lệ”
Một bài độ bốn trang, mà có những 61 những ấy chữ, thì than ôi! Làm gì mà chẳng bi thương!”
“Báo “Annam” của ông Vĩnh đã là báo “Annam mới” thì báo “Annam” của ông Hiếu hẳn là báo “Annam cũ”. Ông Vĩnh mới ít, mà ông Hiếu cũ nhiều. Nên báo ông Vĩnh phải đặt là “Annam mới và cũ” mà báo ông Hiếu là “Annam cũ cũ” hay “cũ cũ” không cho xong chuyện.”
Làm thơ chửi Tản Đà (họa nguyên vận một bài thơ của Tản Đà chửi trước):
Anh lên giọng rượu khuyên Phong-hóa
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá
Đã dạy bao lần tai chẳng nghe
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa
Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu
Lưỡi ngắn thì nên co lại nhé
Phong-hóa mà không hóa nổi anh
Túy nhân quả thực là nan hóa
“Trong nước Nam tưởng chỉ có một tờ báo cổ là báo Nam-Phong. Dè đâu lại có báo Đông-Thanh. Báo Nam-Phong không định cổ mà thành ra cổ, báo Đông-Thanh định tâm cổ mà cổ thật.”
—————
Cuộc đối đầu thế hệ bao giờ cũng diễn ra ở bất kỳ nền văn hóa nào có một chút độc lập tính, có lúc nó cũng âm thầm, nhưng vài lúc nó bùng phát. Cuộc tranh luận (đúng hơn là cãi cọ) mang tên La Querelle des Anciens et des Modernes trong văn học Pháp cuối thế kỷ XVII là một ví dụ: thủ lĩnh bên “cựu” là Boileau, thủ lĩnh bên “tân” là Perrault.
Việt Nam đến đầu những năm 1930 có một cuộc như vậy. Ngay Nhân văn-Giai phẩm giai đoạn sau theo tôi cũng có nhiều phần là như vậy. Lúc nào cũng có đối đầu giữa thế hệ này và thế hệ kia, sẽ có lúc nó trở thành một cuộc chiến thực thụ. Sở dĩ các nhân vật Nhân văn bị đàn áp như vậy, theo tôi, cũng một phần là vì họ đã thắng thế.
Điều hay là trong những cuộc chống chọi, khi có độ lùi thời gian để nhìn lại, thì ta sẽ thấy rằng không hẳn phe nào thắng hẳn như trận Waterloo. Cuộc tranh cãi giữa Picard và Barthes xung quanh Racine đầu những năm 1960 cho thấy rằng khi viết Critique et Vérité để trả lời pamphlet của Picard, nhiều lần Barthes đã cố cãi chứ không thực sự có lý. Phe cựu cũng có lý, phe tân cũng có lý, nhưng điều quan trọng hơn hết là trong những cuộc tranh cãi ấy, phe già có lý ít.