Một câu thật ám ảnh suốt thời tôi còn nhỏ: “Tã đẹp nói dối”. Đây hẳn là đầu tiên ý vị chua chát, mặt trái của cuộc đời dần dần hiện lên, đe dọa đè lấp những hình ảnh kính vạn hoa lấp lánh trong cái nhìn trẻ con. Tại sao tã đẹp lại đi nói dối, tại sao tã lót lại đẹp, và lại đi nói dối. Cuộc đời này thật ra phũ phàng, những truyện đọc thuở nhỏ ngoài việc mở rộng phạm vi cái nhìn còn giúp con người ta lờ mờ có nhận thức về sự phũ phàng ấy.
“Tã đẹp nói dối” là tên một chương trong cuốn truyện Không gia đình của Hector Malot. Sau này tôi mới biết, tuổi nhỏ của miền Nam trước đây biết quyển truyện này qua cái tên Vô gia đình; suốt một thời bọn trẻ con miền Bắc đọc truyện dịch của Hoàng Thiếu Sơn, thì bọn trẻ con miền Nam đọc truyện dịch của Hà Mai Anh, một người tôi mới được biết là đã qua đời đúng vào năm 1975. Hector Malot và Jules Verne, và cuốn truyện của Amicis ở miền Bắc dưới bàn tay Hoàng Thiếu Sơn tên là Những tấm lòng cao cả, ở miền Nam dưới bàn tay Hà Mai Anh nó tên là Tâm hồn cao thượng. Tôi từng gặp Hoàng Thiếu Sơn một lần, lúc tôi còn rất bé, còn ông ấy đã rất già, trên một căn gác nhỏ chất đầy sách, ông ấy và ông Lê Bá Thảo là những đại thụ của ngành địa lý, tôi theo bố tôi đi chúc Tết thầy, hồi ấy tôi chưa biết được rằng mình được hưởng nhiều lợi ích thế nào từ ông già cô đơn ấy, người không chỉ đã dịch Những linh hồn chết của Gogol, bộ sách mở toang cho tôi cả một thế giới thảm đạm, mà còn đã dịch Cuộc lữ hành kỳ diệu về cậu bé Nils Holgersson, mở ra cả một thế giới lấp lánh, nhưng thật ra cũng vô cùng ảm đạm. Hai tập sách ấy, một màu xanh, một hồng nhạt, là quà tặng cho tôi năm tôi chừng mười tuổi.
Cuộc đọc sách thuở nhỏ là những lần đau thắt tim gan vì tại sao những con sói ấy lại chết, trong Người đi săn và con sói lửa của Nguyễn Quỳnh, tại sao con khỉ Tườu Ngộ trong Ở nơi biển cả lại vô ý bất cẩn để phải bỏ mạng như thế, tại sao cậu bé Tom Jones của Fielding cuộc đời lại trầm luân đến thế, Quasimodo đen đủi đến thế. Và tại sao tã đẹp lại nói dối.
Những lần “vượt rào” bắc ghế lên nóc tủ lục cái va li da khóa kín mới kích thích và tuyệt vọng làm sao. Trong ấy là thế giới khác, thế giới nhất quyết người lớn không muốn bọn trẻ con đụng vào. Mẫn và tôi và Đêm màu tím, Trên bờ sông hoang vắng và Ngã ba đường, nhưng nhất là phải chạm được vào Trăm năm cô đơn huyền bí thì mới đích thực là một sự vươn tới u buồn khó hiểu. Đọc trộm đến đúng trang 150 thì tôi không thể tiếp tục được nữa, mặc dù thời ấy bộ Thủy hử sáu tập mượn từng quyển tôi đọc làu làu, chỉ cần vài tiếng là xơi xong cả tập để háo hức chạy xuống hết năm tầng gác rồi lại chạy lên năm tầng gác nữa đổi truyện. Cú đổi truyện ấy cũng là một đóng góp cho sự hé mở vào thế giới người lớn. Cặp vợ chồng trẻ, người chồng rất cao lớn râu quai nón, cởi trần ra mở cửa, mắt tôi hút vào cái giá sách để hàng Thủy hử nhưng còn bị hút hơn về phía cái giường, nơi người vợ nhỏ nhắn xinh đẹp tuyệt vời tóc rối trễ nải chỉ hiện ra từ phần vai trở lên bên trên cái chăn miệng hơi mỉm cười bối rối trước sự xâm nhập đúng vào một thời khắc riêng tư của một thằng bé chạy nhanh nhưng không nhanh mồm nhanh miệng. Sau đó mấy năm, cô vợ chết vì một chứng bệnh nan y.
Robin lục lâm với “tu sĩ Tấc” bầu bạn với tôi những giờ dài đằng đẵng đi theo mẹ đến cơ quan rồi bị quẳng vào xó thư viện cơ quan. Lần nào tôi cũng chỉ mượn đúng quyển ấy, dù đã đọc đến thuộc lòng. Chắc cần rất nhiều sự kích thích hào hùng để qua được buổi chiều ngây ngất nắng như chẳng bao giờ có thể chấm dứt. Kể từ đó, tôi mắc nghiện những thư viện nhỏ bé chơ vơ chẳng ai đoái hoái ở những góc phố, tầng gác hoang vắng. Những dãy dài giá sách bọc bụi dẫn tôi thẳng đến với Jules Verne, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới và nhất là sau này Cuộc thám hiểm trong lòng đất, hồi hộp say mê cả những lần đọc lại khi nhóm người bị núi lửa bất chợt phun trào thổi bắn lên mặt đất, rồi nhà bác học thử nói đủ mọi thứ tiếng mà ông biết, cuối cùng xác định được mình đang ở xứ Phần Lan. Sau này tôi lần mò đọc tất tật những gì Jules Verne từng viết tại thư viện Alliance Française 42 phố Yết Kiêu, cả những truyện chán nhất và dài nhất. Mãi cách đây khoảng trên chục năm tác phẩm đầu tay của Jules Verne mang tên Paris vào thế kỷ XX mới được in dưới dạng di cảo. Năm ấy, bước chân vào nghề nhà văn, Jules Verne đã viết ngay một thứ xám xịt tận thế theo kiểu dystopia nhưng nhà xuất bản Hetzel khôn ngoan lọc lõi đã gợi ý hay là viết về tiến bộ của khoa học và niềm tin của con người vào tương lai, và theo đó Jules Verne đã viết hàng trăm tác phẩm và trở thành Jules Verne, thay vì lẽ ra phải trở thành một Ballard trước Ballard rất rất nhiều năm.
Và cuối cùng là những người da đỏ. Tô-mếch là một kỷ niệm, nhưng tôi còn nhớ mắt tôi đã ghim chặt theo đúng một góc như thế nào vào dãy kệ để sách của hiệu sách lớn nhất Hà Nội hồi ấy trên phố Tràng Tiền khi thấy Cuộc báo thù của người Inca. Rồi Oskeola thủ lĩnh da đỏ, cuốn truyện dạy cho tôi biết rằng khi bị lạc trong rừng ban đêm thì hãy để lỏng cương ngựa cho con ngựa tự tìm đường, nó sẽ hít mùi rễ cây mà đoán định hướng đi. Chỉ có điều sau này chưa bao giờ tôi cưỡi ngựa, cũng chưa cắt lấy cái đầu của tên kẻ thù nào. Tôi chỉ biết mình hoàn toàn hình dung được cảnh tượng.
Andersen, mãi gần đây tôi mới nhận ra, đã đúng tuyệt đối khi nhìn vào thế giới trẻ nhỏ bằng con mắt ấy, con mắt của chết chóc, buồn bã thê lương, ma quái và tuyệt vọng. Chỉ tâm hồn trẻ con mới chứa được hết ngần ấy thứ. Cho dù chương gần cuối của Không gia đình đã tên là “Tã đẹp nói thật”, thì cũng có cứu thoát được gì đâu.
Hình ảnh minh họa :p

Ai mà chẳng mơ thành hảo hán.

Rô bin lục lâm của những buổi chiều không biết ngừng lại.

Biển của một thời đã mất :p

Hai chú bé quá oách.

Người da đỏ ấy. Sau rồi chết sạch.
Sang năm mới rồi đọc lại bài này vẫn thấy buồn cười :p
Thêm hình cho em TN :p

Thêm hình cho bạn Quách :p

