Sở Từ. Ly Tao. Nhượng Tống

Câu chuyện nhỏ này có ý nghĩa ở chỗ: các nhân vật chính trong đó, Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu, Lê Văn Văng và Nhượng Tống đều đã thực sự bị lãng quên. Người đồng chí thân thiết của Tạ Thu Thâu là Phan Văn Hùm có sự xuất hiện trở lại kín đáo, nhưng bốn con người kia thì gần như mất hút. Đây là một phần của câu chuyện về những con người đảng phái ở Việt Nam.

Trong khi đó, Lê Văn Văng là yếu nhân của Tân Việt, một nhà xuất bản vô cùng quan trọng vào quãng sát năm 1945, còn Nhượng Tống, người từng cùng sát cánh bên Phạm Tuấn Tài và là yếu nhân của Quốc Dân đảng, là một bậc kỳ tài thiên hạ xưa nay hiếm.

Nhượng Tống đặc biệt ưa thích Kim Thánh Thán và trong tổng số “lục tài tử” của Kim Thánh Thán, Nhượng Tống đã dịch đến năm tác phẩm, chỉ sót Thủy hử.

Câu chuyện có thể bắt đầu với lời nhận xét sau đây của Nguyễn Tôn Nhan:

“Người tiêu biểu và đáng kể nhất là Nhượng Tống, một dịch giả uyên bác và tài hoa, các bản dịch Ly tao, Tây sương ký… của ông ta đến bây giờ vẫn là mẫu mực, chưa ai có thể dịch hay hơn. Ngay cả Đào Duy Anh, khi dịch Sở từ của Khuất Nguyên, đến bài Ly tao thì cũng lấy lại bản dịch của Nhượng Tống để in vào sách, đề tên N.T. dịch, xem như phần tham khảo chính”.

Điều này chính xác. Bản Sở Từ mà Nguyễn Tôn Nhan nhắc đến là của Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm, in năm 1974:

Chi tiết mà Nguyễn Tôn Nhan nhắc đến nằm ở đây:

Còn đây là đoạn đầu bản dịch Ly Tao của Đào Duy Anh (trong bản dịch này, từ đệm không còn là “chừ” như ở Nhượng Tống hay “hề” như ở một số nhà thơ Việt Nam, mà là “a”):

Trong sách, Đào Duy Anh (cũng là một con người đảng phái – từng là yếu nhân của Tân Việt đảng), cũng đưa vào “tham khảo” bản dịch “Thiệp Giang” của Phan Kế Bính.

Bản dịch Ly Tao của Nhượng Tống đã in ở nhà Tân Việt đúng 30 năm trước đó, năm 1944:

Đây quả là một bản dịch tuyệt vời (sau này một vài bản dịch của Nhượng Tống cũng có được in lại, ví dụ Mái Tây Vương Thực Phủ).

Trong Sở Từ, bản Ly Tao Nhượng Tống có một số sai sót về sao chép, ví dụ:

hai câu rất hay “Đời đều bè đảng gian tà/Một mình ta nói, nói mà ai nghe” bị đổi thành “Đời toàn bè đảng gian tà/Một mình ta nói, nói là ai nghe” khá ngớ ngẩn

Điều rất buồn cười xảy ra khi Nhượng Tống dịch Ly Tao được ông kể lại trong “Cùng bạn đọc”: “Tôi rất tiếc bộ sách thường gối đầu giường của tôi ấy ngày nay lại lạc mất! Đến nay, khi tôi muốn dịch Ly Tao thì cái bản chính phải dùng đến lại là một bản viết, mượn của người ta, mà dán lại nhấm nát mất hai bài Thiên Vấn và Đại Chiêu”.

Trong Sở Từ có thiên “Thiên Vấn” (Nguyễn Sĩ Lâm dịch) nhưng cũng chẳng thấy Đại Chiêu đâu.

Đọc thiên “Quốc Thương” mà Nhượng Tống dịch, tôi có cảm giác như đây là Iliad của Trung Quốc vậy:

Mặc giáp dày chừ, nắm mác tốt
Xe xít bánh chừ, gươm ngắn tuốt
Cờ rợp trời chừ, giặc như mây
Quân đua tiến chừ, tên mưa bay
Trận đánh xát chừ hàng rối bời
Này ngựa chết chừ, quất bốn ngựa
Giật dùi ngọc chừ thúc trống rữ
Thần linh giận chừ, trời chẳng tựa
Đầy đồng hoang chừ, chết tứa bựa
Tiến chẳng lui chừ, đi chẳng về
Trông nước cũ chừ đường xa ghê
Lưng đeo kiếm chừ, tay cắp cung
Đầu tuy rơi chừ dạ chẳng chùng
Thật hăng hái chừ thật can đảm
Lấn hiếp nhau chừ chuyện không xong
Thân đã chết chừ, thần phải thiêng
Hồn vía ma chừ, vẫn anh hùng

Nói chung, toàn văn Ly Tao Nhượng Tống có thể đọc trên mạng. Tôi chỉ còn thắc mắc tại sao Hoàng Phạm Trân lại lấy bút hiệu là “Nhượng Tống”. Tôi từng nghe một câu chuyện giả thuyết về cái bút hiệu này, nhưng chưa tìm được tài liệu chứng minh.

Nhượng Tống là một trong những nhân vật kiệt xuất của Việt Nam bị lịch sử đối xử quá mức bất công. Dưới đây là các tác phẩm chính của Nhượng Tống (hình ảnh của bạn VHT):

còn dưới đây là hình ảnh của anh HTN: