Huy Cận: Lửa thiêng 1940 và Kinh cầu tự 1942:

Trước 1945, tiểu thuyết gia lớn là ai? là Khái Hưng (chứ không phải Vũ Trọng Phụng).
Còn nhà thơ lớn là ai? là Huy Cận.
Quá khứ Quốc Dân đảng không làm Khái Hưng tự dưng lớn, tương lai Cộng sản không làm Huy Cận bỗng nhiên nhỏ.
Thế mới oái oăm, nhìn nhận văn chương thật ra chỉ cần hai điều: công bằng và nghiệt ngã, mà nghiệt ở chỗ hai cái í tuyệt đối liên quan đến nhau, muốn công bằng thì phải nghiệt ngã thôi.
Trước 1945 có mấy tập thơ lớn, rất lớn: Điêu tàn của Chế Lan Viên, Mây của Vũ Hoàng Chương, Tinh huyết của Bích Khê, Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử, Gửi hương cho gió của Xuân Diệu, nhưng tập thơ nào tuyệt đối không bói ra nổi một câu thơ dở? đó chính là Lửa thiêng.
Nhưng sự đời còn oái oăm ở chỗ, quãng 2000, tôi đầu xanh tuổi trẻ 19, 20 tuổi, có vài lần tôi lạc đến 51 Trần Hưng Đạo, tôi thấy Huy Cận, tôi bàng hoàng vì tại sao kia, con cóc cụ kia, một lão già mặt mũi thế kia, lại còn không có cổ, lại là “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm”, lại là người viết được “Ai chết đó nhạc buồn chi lắm thế”, “Ai đi đưa xin đưa đến tận nơi/Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi/Người đã chết – Một vài ba đầu cúi”, viết được những câu thơ kinh thiên động địa như “Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay”.
Hay là cười lên một cái?
Vài trang trong tập thơ vĩ đại này:


