Thế Lữ

1934-1935 là khoảng thời gian làm nên tên tuổi một người sẽ còn nổi tiếng rất lâu dài trong nền văn chương Việt Nam: Thế Lữ.

Tập Mấy vần thơ này vẫn được coi là điểm mốc đầu tiên mạnh mẽ nhất của Thơ Mới (bản 1935 hiếm quá nên ở đây chỉ dùng tạm bản 1941). Còn Vàng và Máu xuất bản năm 1934 ở “Annam xuất bản cục” với lời tựa của Khái Hưng sau này không mấy danh giá.

Nhưng với thời gian, giờ đây ta phải nhìn nhận lại: vị trí của Thế Lữ trong thơ như thế nào và vị trí của Thế Lữ trong văn xuôi như thế nào? Theo tôi, mọi thứ đã đảo ngược: thơ của Thế Lữ giờ đọc lại rất khó hiểu tại sao nó lại từng có thanh thế lớn đến vậy. Thơ của Thế Lữ là thơ gượng ép, nhạt nhẽo, chán ngắt.

Giở Mấy vần thơ ra là tha hồ nhặt những câu thơ ngô nghê không thể tả:

Tôi tiễn đưa anh đến tận thuyền
Để dài thêm hạn cuộc tình duyên;
Thuyền đi, tôi sẽ rời chân lại,
Tôi nhớ tình ta, anh vội quên.

Thuyền khách đi rồi, tôi vẫn cho
Lòng tôi theo lái tới phương mô?
Bâng khuâng trong cõi sầu vô hạn,
Không khóc, vì chưng mắt đã khô.

(Bến sông đưa khách)

hoặc:

Là những trò giả dối của người ta
Tôi ngược xuôi trên đường thế mịt mờ,
Giữa những đám chen chúc, dập dồn và náo động,
Vẫn như bước trên cánh đồng xa rộng:
Bấy nay thui thủi một mình.
Nhưng trong khi phấn đấu đua tranh,
Lòng nhân thế gian ngoan mà lòng tôi ngờ vực,
Trong những lúc giang hồ cay cực,
Vừng cây xanh bỗng réo rắt tiếng chim ca,
Khiến cho người non nước động hồn thơ…

(Lời mai mỉa)

hoặc nữa:

Cây im, sông lắng đợi Xuân về,
Trong lúc trần gian, dưới bóng the
Của buổi thanh bình, thong thả sống,
– Từ nơi thành thị tới đồng quê

(Đời thái bình)

Thật chẳng ra một cái gì cả, không chút ý vị, đúng kiểu thơ phường thơ xã hiện nay. Thế mà, Lê Ta Thế Lữ từng là một trong những người tích cực chê thơ Nguyễn Vỹ nhất, trong khi thơ của Thế Lữ đâu có hơn gì “Pho tượng đồng đen” nổi tiếng chán của Nguyễn Vỹ.

Thế nhưng văn xuôi của Thế Lữ lại không hề thấp kém mặc dù nó luôn luôn chọn các thể “thấp”. Văn xuôi mới hợp với con người Thế Lữ, cái nhìn quái dị của Thế Lữ, và sự nghiệp của Thế Lữ còn lại đến ngày hôm nay lại chính nhờ những thứ mà chắc bản thân Thế Lữ từng coi là vớ vẩn như Vàng và Máu chứ không phải “thơ ca cao quý”.

Năm 1934 ấy, Tự Lực Văn đoàn vẫn còn sơ khai lắm:

Tranh minh họa cho Vàng và Máu của Trần Bình Lộc: quan châu Nga Lộc thẳng tiến núi Văn Dú: