Hoàng Cầm: Cô gái nước Tần

Nhân đúng ngày Hoàng Cầm qua đời, cách đây 5 năm, “công bố” một tác phẩm kịch thơ của Hoàng Cầm. Thật ra tôi cũng không định “tưởng niệm”, và cũng đã đọc Cô gái nước Tần lâu rồi, nhưng do gần đây mới phát hiện hóa ra vở kịch thơ này chưa bao giờ thấy xuất hiện trở lại trong mọi tuyển tập Hoàng Cầm, có vẻ như chính tác giả cũng quên mất nó. Lại có nhà nghiên cứu cho biết Cô gái nước Tần đã được in thành sách trong thập niên 50, nhưng tôi đã tìm kỹ mà không hề thấy; càng ngày tôi càng ngờ ngợ, hình như lắm nhà nghiên cứu văn học rất thích tưởng tượng ở những nơi chẳng thích hợp để tưởng tượng cho lắm.

Cô gái nước Tần không rực rỡ và được nuôi dưỡng bằng một cảm hứng đặc biệt lung linh như Kiều Loan, nhưng đây là một kịch thơ không hề dở, và nó còn có điểm đặc biệt, là tác phẩm Việt Nam rất hiếm hoi lấy “nước Tần” làm bối cảnh nhưng không phải chuyện Kinh Kha.

Cô gái nước Tần được đăng nhiều kỳ trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy vào năm 1949. Năm này, sau cơn tao loạn, Vũ Đình Long cho tục bản Tiểu thuyết thứ Bảy ở Mục Xá, đăng nhiều tác phẩm của Vũ Bằng, Ngọc Giao, Thao Thao, Tchya, cùng một số tác giả mới xuất hiện. Dưới đây là nguyên văn vở kịch, y nguyên như đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, in đậm in nghiêng và mọi thứ có thể gọi là lỗi chính tả.


HOÀNG CẦM

CÔ GÁI NƯỚC TẦN

Kịch thơ bi-hùng-tráng một màn

NHÂN-VẬT

TẦN-VŨ, võ-tướng, nguyên nhung nước Tần, gần 30 tuổi.

THÁI BÁ, lão-tướng nước Tần dưới trướng Tần-Vũ, 60 tuổi.

TẦN-HUYỀN-CƠ, quận-chúa nước Tần; người yêu của TẦN-VŨ, ngoài 20 tuổi.

Kịch sảy ra trong dinh Tần-Vũ ở

kinh-đô nước Tần, mội đêm về sáng

BÀI TRÍ: tư-thất Tần-Vũ, có cửa ra ngoài hiên. Vài cây liễu rủ trong ánh giăng. Trong nhà: một cái án phủ vải đỏ trên đặt một bàu rượu, một thanh gươm bên cạnh ngọn bạch-lạp leo-lét cháy.

MỞ MÀN: Quá nửa đêm, Tần-Vũ ngồi trầm-ngâm bên án, xa xa có tiếng trống trận rội về…

LỚP THỨ I

TẦN VŨ, một mình

Đêm đã khuya… Kinh-đô Tần thao-thức

Dưới ánh giăng thoi-thóp nhạt hơi sương.

Tiếng trống trận nổi chìm, trong gió giục

Đuổi theo hồn kiêu-hãnh Sở-Bình-Vương.

Ta ngóng đợi đoàn quân reo đắc-thắng

Đem muôn đầu giặc Sở tới đan-trì.

Nhưng tiếng gió chưa nguôi niềm cay-đắng

Trong những ngày loạn-lạc nỗi chia-ly;

Càng căm giận Sở-Bình-Vương ngạo-mạn

Dám đem quân vào tới kinh-đô Tần,

Để già trẻ bế bồng nhau lánh nạn

Trong những chiều máu lạnh đẫm hồng-vân

(Thở dài)

Một năm ròng ảm-đảm,

Đường xa lạnh gót chân.

Đau thương tràn huyết-lệ

Sao-sác nước non Tần.

Ngôi vua lìa hướng về phương Bắc,

Gió lộng tơi-bời mái tóc xuân.

Nhưng trai trẻ nước Tần thề một chết,

Không bao giờ khuất phục Sở-Bình-Vương.

Đều đứng dậy, giăng sao mờ khí tiết,

Ngọn cờ Tần phấp-phới nổi nghìn phương.

Được một năm, binh lực Tần quật khởi

Đã đánh lui quân Sở tới biên-thùy,

Ta lấy lại kinh thành… Trong gió bụi,

Trống vang lừng như đếm bước quân đi.

Còn một trận cuối cùng trên núi Vệ,

Lão tướng-quân Thái-Bá tóc râu bông

Đã thống lĩnh ba nghìn quân tinh-nhuệ

Đi từ tuần giăng trước, hẳn thành công.

Đã nửa tháng, ta mong chờ Thái-Bá

Về kinh-đô, cùng nâng chén khải-hoàn

Đến đêm nay, trống phương trời giục-giã

Lùa gót chân giặc Sở chạy về Nam.

(Nâng bầu rượu)

Lòng ta vui. Rượu xanh màu cỏ lá,

Thì uống đi, uống cạn chén hân-hoan.

Tần-Vũ rót rượu uống. Tiếng

trống nghe mỗi lúc một gần)

Tiếng trống đã về gần,

Gió reo mùa đắc-thắng,

Thơm ngát nước non Tần,

Trong nhạc vàng văng vẳng,

Thôi hết niềm cay đắng,

Tiếng trống đã về gần,

Rượu ngon say hát thời oanh-liệt,

Tuổi trẻ dâng đầy một chén xuân.

(Rót chén nữa, kính cẩn nâng ngang mày)

Đây chén rượu ta mừng ngôi cửu-ngũ

Tần Liêu-vương muôn tuổi với trời cao

(Uống cạn, say sưa ngâm)

Mười năm cung kiếm rèn tâm-trí,

Ai võ-tướng như ta hề thỏa lòng khát khao?

Một sớm nghe thần nhạc

Vi-vu giải mây đào.

Sông Tần nước biếc lau trường-kiếm,

Ai khanh-kháh cười ta hề sóng cồn sôn-sao?

(Rót chén nữa)

Đây chén rượu ta uống mừng Thái-Bá

Say chiến-công râu tóc phất-phơ bay,

Ánh giăng chắc có phơi màu áo,

Chân ngựa vương theo hề giăng vàng tới đây.

(Rót liền liền)

Lòng ta không muốn tỉnh,

Ai vui mà chẳng say?

Rót thêm chén nữa mừng Tần-Vũ,

Tuổi trẻ như ta hề đêm nồng ngất-ngây.

(Sững-sờ nhìn vào quãng không bỗng ngậm-ngùi)

Chao ôi! men rượu tràn thương nhớ,

Ai gợi lòng ta thoảng nhớ thương?

Huyền-Cơ em hỡi, dư hương

Còn trong men rượu đêm trường ngẩn ngơ.

(Rốc cả bầu)

Tiếng trống lại về gần,

Say mềm, quên chuyện cũ.

Ai động niềm tâm-sự

Trong ánh giăng ngoài sân?

Huyền-Cơ chiều ấy lìa phương hướng

Tàn-ác mưa về mộng ái-ân.

Rượu ơi, đừng nhắc tình nương-tử,

Rót đẫm lòng ta hề nguôi sầu đêm xuân.

Ta say hay vẫn tỉnh!

(Lảo-đảo đi ra hiên)

Ai đứng ngoài thềm sương?

Ai đi quanh bốn chân tường?

Tóc ai rũ rượi tình thương não-nùng?

Phải Huyền-Cơ quận-chúa?

Thôi, cách biệt muôn trùng!

Chiều xưa quân sở vào Vân-Các,

Em ra về đâu có nhớ nhung?

Tóc em đành bỏ rối,

Áo em đành sác-sơ.

Ta theo gót ngựa lên miền Bắc,

Em mất về đâu với bóng cờ?

(Giọng kể-lể, như nói với một

người đứng bên cạnh)

Ta thương em, gót sen vàng yểu điệu

Đẫm trông gai rừng núi bao nhiêu ngày.

Đêm khuya rồi, sao còn đứng mãi đây?

Khóc chi nữa? Ta đây mà… Tần Vũ.

Ta đây mà, Huyền-cơ, em có nhớ?

Trăm ngọn đèn trăm sắc rọi dung-nhan,

Vườn thêu giăng sào-sạc lá khô tàn,

Dưới chân bước mê-ly người ảo-mộng.

Sao đêm nay rộn kinh-thành tiếng trống?

Thôi qua rồi, mùa diễm-lệ xưa kia.

Loạn nước Tần, đôi nẻo bỗng chia lìa,

Ta phương Bắc, em về đâu chẳng biết.

Em còn sống hay là… em đã chết?

Chết trong tay quân nước Sở bạo-tàn?

Một thu tròn, ta lấy lại giang-san,

Sao em vẫn tuyệt mù không tin-tức?

Ta đây mà, đêm khuya nay tỉnh thức

Để chờ em…

(Bên ngoài, tiếng trống tưng

bừng, sen lẫn tiếng người)

… Ô! vó ngựa xôn-xao,

Tiếng quân reo… Quận-chúa ở phương nào.

Có về kịp ngày vinh-quang rực-rỡ?

Để mừng Tần-vương… – Kìa sao em bỡ ngỡ?

Ta đây mà, Tần-Vũ, tướng nhà Tần.

Bao nhiêu ngày, ta quên cả tấm thân

Để diệt Sở, nhưng quên em sao được?

Em vào đây. Đây là nơi nguyện-ước

Lần đầu tiên trao đổi chuyện thương yêu

Em vào đây. – Ồ, mưa nắng đã nhiều,

Em vò-võ phương trời xa tưởng nhớ.

Em bay theo biết bao nhiêu cơn gió,

Đêm giăng mờ, em có lạnh lắm không?

Em ở đâu về? – Tuyết trắng non sông,

Áo mỏng mảnh, tóc đầm sương chan-chứa.

Trống rộn-rã, thôi, em đừng khóc nữa,

Khắp kinh thành, ánh lửa chói vàng son

Quân đã về, đã tới khải hoàn môn

Em đứng dậy cùng ta mừng Thái-Bá

Đã thành công…

(vào ngồi bên án)

Trời ơi thương nhớ quá,

Em đi đâu? Em hỡi Tần-Huyền-Cơ?

Ta say rồi không biết đến bao giờ

Mới lại thấy…

(Gục đầu bên bàu rượu)

Vó ngựa nào rung động?

Trong chiêm-bao vẫn vang lừng tiếng trống,

Ai vào đây Thái-Bá hay Huyền-Cơ?

(Thiếp dần)

Nhớ bao giờ khóc bấy giờ,

Đìu-hiu ngọn gió, giăng mờ hơi sương.

(Tần-Vũ tựa án ngủ. Một lát cây bạch-lạp vơi

dần. Thái-Bá từ ngoài hiên, nhẹ bước

vào, đứng nhìn Tần-Vũ đang thiêm-thiếp)

LỚP THỨ II

THÁI-BÁ     TẦN-VŨ

THÁI-BÁ, gọi.

Công-Tử! Vũ công-tử!

TẦN-VŨ, nói mê…             Ở phương nào…

Huyền-Cơ… Ta say…

THÁI-BÁ.                          Người đã chiêm-bao

Trời gần sáng, dậy đi thôi công-tử!

TẦN-VŨ, từ từ ngửng đầu nhìn.

Ai đứng đó?

THÁI-BÁ.               Tôi vừa rời yên ngựa

Vội vào đây, mừng công-tử thành-công.

TẦN-VŨ, nhận ra mừng rỡ.

À, Thái-tướng-quân!

THÁI-BÁ, quì lạy.           Nợ nước trả xong,

Lão kính cẩn…

TẦN-VŨ (nâng dậy) Xin bình-thân, Thái-Bá.

Bao ngày đêm, lão tướng-quân vất-vả,

Xin cùng ngồi, và chuốc chén giao-hoan.

Tôi ở kinh-đô, chờ lúc khải-hoàn,

Trông lão tướng lại thêm phần tráng-kiện.

THÁI-BÁ.

Ngay từ buổi lão rời xa cung-điện,

Vâng lệnh truyền đi thẳng tới Vệ-Sơn

Đã biết ngay quân Sở sẽ ghê-hồn

Vì oai vũ của nhà Tần oanh-liệt.

Nửa tuần giăng, quân thù vừa tiêu-diệt

Đến đêm nay, thì lão tướng hồi kinh

Trăm dậm dài, nghe thét lửa oai-linh

Từ bốn cửa đô-thành đang rộng mở.

(Lần vành khăn, lấy ra một hạt ngọc)

Lão về đây, xin đệ trình công-tử

Một hạt châu vô giá của Bình-Vương.

TẦN-VŨ (cầm ngọc soi vào ngọn bạch-lạp)

Sở Bình-Vương!

THÁI-BÁ.                Thua chạy ở Hoa-Cương

Bỏ rơi ngọc, trốn ngay về nước Sở

Lão cho quân đuổi theo, không kịp nữa

Đành lui về…

TẦN-VŨ, (gật gù). Đây là hạt thanh châu

Sở-Bình-Vương ôm-ấp đã từ lâu

Ngọc truyền lại từ đời Chu-Thịnh-Đế…

(Cất ngọc lên mũ, nhìn Thái-Bá)

Công Thái-Bá, thật là công trời bể

Cứu giang-san, gương-sáng để muôn đời.

THÁI-BÁ

Đó là do tài thao-lược tuyệt-vời

Của công-tử?

TẦN-VŨ.          Tôi là người trẻ tuổi

Xin theo gương tướng-quân mà gắng gỏi

Không phụ lòng tin cậy của Tần-Vương

(Rót rượu)

Nạn nước đã qua. Bình định bốn phương,

Rượu chiến-thắng, xin rót mừng Thái-Bá.

(đưa rượu cho Thái-Bá)

THÁI-BÁ, kính cẩn đỡ chén rượu, và uống cạn.

Một chén rượu vợi niềm đau thiên hạ,

Người tướng hèn xin cảm tạ ơn trên.

TẦN-VŨ.

Mong tướng-quân kể lại nỗi chuân-triên

Của quân sĩ đã đánh tan giặc Sở.

Tôi ở kinh-đô, lúc nào cũng nhớ

Đến những trang anh-dũng, chí quật-cường,

Thề phanh thây uống máu Sở Bình-Vương.

Trên núi Vệ, quân Ngô-Cầu cố-thủ.

Tôi nghe đồn…

THÁI-BÁ.         Vâng, thật là gian khổ

Vì đoàn quân dũng mãnh của Ngô-Cầu,

Tài cung tên, ẩn nấp ở rừng sâu,

Trên núi Vệ, như mưa rào bắn xuống.

Nhiều dũng-sĩ nước Tần đành chết uổng.

TẦN-VŨ.

Nhưng tôi tin Thái-Bá lắm mưu thần

Thì lẽ nào…

THÁI-BÁ.      Vâng, giặc Sở vững chân

Thường ỷ-lại vào cung tên gỗ đá.

Tôi dùng chước quấn rơm, chùm cỏ lá

Cho những quân liều chết, chờ đêm khuya

Leo lên rừng…

Thì quả nhiên, bên địch bỗng tan lìa

Sau năm đêm hy-sinh và quả-cảm.

Toán quân Sở cuối cùng thừa can-đảm

Mở một con đường máu về phương Nam.

Dũng-sĩ Tần theo đến núi Linh-San

Thì bắt được minh-châu, và hơn thế,

Còn bắt sống được một tướng tài, tuổi trẻ…

TẦN-VŨ, reo mừng.

Một tướng tài? Chắc hẳn là Ngô-Cầu?

THÁI-BÁ, lắc đầu.

Không, Ngô-Cầu ẩn-nấp ở rừng sâu

Đã phù trợ Sở Bình-Vương chạy trốn.

Còn vị tướng này làm ta nguy khốn

Bao nhiêu lần…

TẦN-VŨ.      Thái-Bá nói mau lên.

Hắn là ai? Ta có biết họ tên?

THÁI-BÁ, như nói một mình.

Thật không ngờ!

TẦN-VŨ.          A phải rồi, tôi nhớ rõ

Ngày năm xưa, hội Chư-Hầu nước Sở

Tôi được quen một danh tướng trẻ măng.

Là Thiết-Vu. – Có lẽ phải đây chăng?

THÁI-BÁ.

Cũng không phải! Tướng này, thưa Công-tử,

Tuổi hai mươi, là một trang kỳ-nữ.

TẦN-VŨ, ngạc nhiên.

Ồ, lẽ nào!

THÁI-BÁ.      Một sự thật hiển-nhiên.

Là một người con gái, đẹp như tiên.

Còn tên họ, lão chưa cần kể vội.

Một lát nữa!…

TẦN-VŨ.        Tôi chưa từng nghe nói

Đến bao giờ!… Một nữ-tướng thư hùng…

THÁI-BÁ.

Người đã ngang-tàng vượt núi qua sông

Đội lốt trai, đã phá thành Đĩnh-Thảo,

Đã đốt cháy rừng Vi, và ấp Tháo,

Giết ba trăm già trẻ ở Nga-Sơn,

Đã tung hoành chiến trận, một tay thương

Đã chiếm lấy Thùy-cung, khi thất-thủ

Kinh đô Tần…

TẦN-VŨ.       Phải rồi, tôi đã nhớ

Một kẻ thù. – Nhưng chính hắn là trai,

Cháu Bình-Vương, tên thường gọi Lã-Mai.

Tôi với hắn chưa lần nào giáp chiến.

Nhưng cứ nghe ba quân về kể chuyện

Thì quả là một tráng-sĩ anh-hùng.

THÁI-BÁ.

Và hôm nay thì đã đến đường cùng,

Bậc anh-thư sắp vào hầu công tử.

Tôi đã bắt cung-khai và chép rõ

Những đau thương cực khổ của dân ta

Đã gây nên vì một kẻ đàn-bà!…

(Đưa cho Tần-Vũ một tập giấy)

Công-tử xem…

TẦN-VŨ.      Ồ, thật là kỳ-dị!

Một cô gái? Là người nào thế nhỉ?

THÁI-BÁ.

Cháu Bình-Vương, tên bịa đặt Lã-Mai,

Lẫn trong quân, thường mặc giả con trai,

Nhưng chính hắn đã gây nên chinh-chiến

Sui giặc Sở ngoài biên-thùy gây chuyện,

Rồi tiến quân ào-ạt chiếm kinh thành.

Một năm ròng, khói lửa ngất giời xanh

Máu dân nước viết nghìn trang hận-sử.

Tập giấy này, cứ mỗi dòng, mỗi chữ

Còn vẳng lên lời não-nuột bi-thương…

Bao hồn ma, bao sông máu núi xương,

Còn kêu khóc trên mỗi tờ giấy đỏ.

Lời cung khai, ai xem rồi cũng nhớ,

Cũng khóc theo cây cỏ, nước non Tần

Đã rập vùi dưới gót một giai-nhân.

TẦN-VŨ.

Vâng, tội trạng Lã-Mai quả là rõ rệt,

Tôi sẽ tâu lên Chúa-công minh xét.

Con quỉ này, thật tội đáng bêu đầu,

Nhưng hiện nay, còn giữ hắn ở đâu?

THÁI-BÁ.

Ở ngoài trại. Vả chỉ trong lát nữa,

Lính sẽ dẫn hắn vào trình Công tử.

(Đứng dậy)

Thôi, bây giờ tiểu-tướng phải vào cung

Mừng nghiệp Tần và ra mắt Chúa công.

Xin kính biệt.

TẦN-VŨ.       Vâng, vừng đông sắp tỏ,

Tướng-quân đi… rồi kíp đưa người đó

Vào bản-dinh, tôi xem mặt kẻ thù.

THÁI-BÁ.    Xin lĩnh mệnh.

(Vái chào đi ra, được vài bước lại ngập

ngừng dừng lại rồi quay vào)

                           Nhưng cô gái tử tù,

Thưa công tử, là một trang tuyệt sắc.

Nếu tướng-quân có khoan dung người tóc bạc,

Thì lão-phu mới dám nói câu này…

TẦN-VŨ.

Tôi vẫn cùng Thái-Bá như chân tay,

Huống chi tôi dù quyền cao, chức trọng

Nhưng tuổi trẻ, việc đời chưa hiểu rộng

Thì có điều gì… lão-tướng cứ cho nghe.

THÁI-BÁ.

Cô gái này từng in dấu ngựa xe

Ngoài hoa cỏ núi sông Tần diễm-lệ

Nhan sắc ấy thật náo nguồn động bể,

Một nét thu chừng đổ nước nghiêng thành.

Một bàn tay mà vương nghiệp tan tành,

Một giọt lệ, chết lòng người dũng-sĩ.

Là Muội Hỉ, là Ly Cơ, Đát Kỷ,

Tề Văn Khương hay Bao Tự sầu-bi

Đã gây mầm cho bao cuộc loạn ly.

(Ngập ngừng)

Mà công-tử thì hãy còn trẻ tuổi,

Lão chỉ e rồi… bể tình đắm đuối…

TẦN-VŨ.

Không! Không bao giờ…

THÁI-BÁ.          Nhưng sắc đẹp mê hồn,

Trong mắt xanh, bao kẻ rắp vùi chôn

Cả tài khí…

TẦN-VŨ.       Đừng nói nhiều, Thái-Bá!

Con ác phụ làm đảo điên thiên hạ

Không bao giờ mê-hoặc nổi lòng ta.

Tần-Vũ đây từng chống giữ sơn hà

Người khinh mạn, coi ta như đứa trẻ!

Người lui đi!

THÁI-BÁ.         Lão muôn phần kính nể

Tần nguyên-nhung. Xin giết lão cho xong!

Tấm thân già có chết cũng vui lòng,

Nếu Công tử nghĩ đến thù tổ quốc

Mà giữ vẹn lòng son…

TẦN-VŨ, giận dữ.       Người lui bước

Chuyện nhàm tai, người đã quá dài lời.

THÁI-BÁ.

Nhưng sắc đẹp mỹ-nhân…

TẦN-VŨ.              Ta chỉ cười,

Đâm mũi kiếm vào trái tim ác-phụ

Để lấy máu gột niềm đau nỗi khổ

Bao nhiêu phen thê-thảm nước non Tần.

THÁI-BÁ.

Lão sợ rằng…

TẦN-VŨ.        Không, ta đã cầm quân

Để cứu vớt bao người trên đất nước,

Thì nhan sắc không làm say đắm được.

Truyền giáp binh đưa cô gái vào đây.

Hỏi tội xong, ta sé sác phanh thây

Con ác-phụ làm nước Tần đau khổ.

Cha lìa con, anh lìa em, chồng bỏ vợ,

Mà riêng ta, nín lặng chịu đau thương

Vì Huyền-Cơ thôi cách biệt nghìn phương.

THÁI-BÁ.

Lão lấy tình thân, cúi mong công-tử

Vì sự-nghiệp nhà Tần bao gian khổ,

Vì muôn dân từng đói rét, đau thương,

Vì tuổi già này rầu rãi tuyết sương,

Vì sứ mệnh Tần Vương trao công-tử,

Mà thề một câu…

TẦN-VŨ.           Thái-Bá còn chưa rõ

Lòng ta sao?

THÁI-BÁ.       Công-tử hãy nguôi lòng.

Tuổi già này vì nghĩa nặng non sông,

Xin chịu chết. Nhưng trước khi nhắm mắt,

Mong công tử giữ lòng son dạ sắt.

TẦN-VŨ.

Ta hiểu rồi! Thái-Bá hãy vào cung.

Ta là người chỉ nghĩ đến non sông.

THÁI-BÁ.

Chính lão phu ngày tuổi xanh bỡ ngỡ

Đã xa lìa quê hương, vào núi đỏ

Chịu đau thương bao năm tháng phong trần,

Cũng chỉ vì hai con mắt mỹ-nhân…

Lòng người đổi thay… nào ai biết trước.

Công tử thề đi… vì dân… vì nước.

TẦN-VŨ, cười.

Thề!… Ta sẽ thề cho lão tướng yên lòng.

Ta sẽ thề vì trọng nghĩa non sông,

Để đáp lại lòng Tần Vương yêu quí,

Để đền ơn bao anh-hùng nghĩa-sĩ,

Tôi xin thề sẽ giữ vững lòng son,

Giết kẻ thù để giữ vững giang sơn,

Dù người ấy là một trang quốc sắc.

THÁI-BÁ, tươi cười.

Lòng công-tử, lão không còn thắc-mắc,

Người tướng hèn xin công-tử khoan dung

Vì tình thân đã lạm nghĩa tôi trung.

TẦN-VŨ.

Sở-dĩ lão tướng-quân lên tiếng nói,

Để cho ta không mềm gan, yếu đuối

Cũng chỉ vì non nước nhà Tần thôi.

Ta cảm ơn… Vừng nhật sắp lên rồi,

Mời Thái-Bá hãy vào trong nội-điện

Kẻo Tần Vương mong.

THÁI-BÁ.       Tôi vào yết kiến

Tần Liêu Vương, câu chuyện chắc còn lâu.

Quân giáp binh sẽ dẫn hắn vào hầu,

Mong công tử giữ lời thề sắt đá.

(Thái-Bá cúi chào rồi ra)

LỚP THỨ III

TẦN-VŨ, một mình.

Giữ lời thề? Ta giữ gìn thiên hạ

Thì lẽ đâu không giữ được lời thề…

Sắc đẹp mỹ nhân nào có nghĩa gì?

Người tuổi tác quá lo xa cho Tần-Vũ!

Sao Sở Vương lại có người liệt nữ?

Nàng là ai? Không có lẽ Lã Mai…

Cháu Bình Vương, chính thực hắn con trai.

Thì lạ thật… Nực cười cho Thái Bá

Dấu diếm mãi! (Xem lại tập cáo trạng)

Làm đảo điên thiên-hạ

Là người này, người quốc sắc thiên hương.

Ai gây ra nghìn vạn nỗi đau thương?

Bao ngày tháng nước non Tần ảm đạm?

Một dân tộc sót sa và thê thảm

Khóc bao nhiêu dưới gót Sở hung tàn?

Bao thị thành, bao thôn ấp tan hoang?

Bao xương máu chất cao niềm oán hận?

Dù đắc thắng, làm sao nguôi nỗi giận

Khi Bình vương chưa chết dưới tay ta?

Tên giặc cuối cùng… một kẻ đàn bà

Một mỹ nhân…        (cười lớn)

Có phải chăng độc kế

Của Bình Vương đem sang lòng tuổi trẻ?

Nhưng ta thề quyết giữ vững non sông,

Gọi mùa xuân về giãi nắng xuân hồng

Trên cây cỏ nước non Tần ủ rũ.

Thì sắc đẹp sẽ tan tành rơi vỡ

Dưới bàn tay cương quyết của nam nhi.

Ta không quên giặc Sở, một chiều kia,

Làm tan nát những bông hoa Vân Các,

Để Huyền Cơ phải lạc loài trôi dạt,

Rừng núi đâu rơi rụng cánh chim chiều.

Khắp kinh thành còn vẳng tiếng quân reo.

Trời đã sáng, Vừng Thái dương tươi thịnh

Đã lên ngôi. Bốn phương trời bình định

Từ nội cung vẳng đến nhạc mùa xuân

Mà Huyền Cơ, em cách biệt vô ngần. (Đến bên án)

Nhưng lòng ta không có quyền chán nản

Còn ly rượu cuối cùng ta uống cạn

Chờ kẻ thù đến chết dưới gươm thiêng

(Uống rượu, rồi tuốt gươm)

Vỗ gươm ta hát rằng:

Thành quách treo đầu giặc,

Sử vàng ghi chép tên,

Cầu son ngựa… vui chân nhạc

Chuyển giáng kinh thành khói bốc lên.

Lòng muôn dân đầm ấm

Vang lừng khúc tráng ca.

Cờ Tần tám hướng say cơn gió,

Trống giục tưng bừng ngát cỏ hoa.

Biên thùy dằng dặc hồn ma

Hát về nước Sở bài ca nghìn trùng.

Sông Tần trôi đến bể đông,

Nguy nga dựng bóng mây lồng tà dương

(Ba tiếng trống báo, Tần Vũ

nhìn ra cửa đứng dậy)

A! quân sĩ đã đưa nữ tặc

Vào đây chịu tội nước Tần.

Ta sẵn sàng xem tài sắc mỹ nhân…

LỚP THỨ IV

TẦN-VŨ,     HUYỀN-CƠ,     LÍNH

Lính dẫn Huyền Cơ vào. Nàng bị trói bằng một

giải lụa đỏ. Tần Vũ chăm chú nhìn, nhận ra

người yêu, dáng đau đớn ngồi phịch xuống ghế

TẦN-VŨ.

Huyền-Cơ! Trời ơi! Tôi mê hay tỉnh?

Huyền-Cơ đây… Có lẽ nào? nhất định

Ta mê rồi.        (gục mặt, không nhìn)

HUYỀN-CƠ. – Vâng, chính thực Huyền-Cơ

Đã vào tay Thái-Bá, đến bây giờ

Về chịu chết dưới gươm thiêng công-tử?

Huyền-Cơ đây! Chàng nhìn cho biết rõ

Người yêu xưa trong mối loạn nhà Tần.

TẦN-VŨ, ngửng đầu.

Có ngờ đâu. Ta đau đớn vô ngần.

Vì quận chúa. Trời ơi! loài nghịch tặc!

Ngươi lui ra! Ngờ đâu ngày gặp mặt

Lại là ngày ân nghĩa đổi ra thù.

Huyền-Cơ! Trời ơi! nhục nhã nghìn thu!

Ngươi tránh đi, ngươi ra ngay khỏi cửa,

Huyền cơ! Còn nhìn nhau làm chi nữa?

HUYỀN-CƠ.

Không, Huyền-cơ đã trở lại nước Tần.
Thiếp cúi xin công-tử hãy bình tâm

Nghe thiếp kể…

TẦN-VŨ.       Không nghe lời giả dối.

Ta bắt ngươi hôm nay về chịu tội

Máu nhà ngươi đem rửa nhục nước Tần.

Ta không ngờ bao ngày tháng ái ân,

Ta nhắm mắt trong tình thương nỗi nhớ

Mà không biết đây chính là tặc nữ

Vũng bùn nhơ trong Vân Các huy hoàng.

Một con trùng, mầm loạn của giang san,

Con rắn độc nằm bên ngôi cửu ngũ.

HUYỀN-CƠ, cười nhạt.

Thiếp cũng không ngờ ngày nay Tần-Vũ

Đã mê man trong gấm lụa vàng son

Ai giết Tần? Ai làm loạn giang sơn?

Con rắn độc là ai? Chàng tỉnh lại

Mà xem kỹ trang sử Tần tê tái

Vì người sau làm tủi thẹn người xưa.

TẦN-VŨ.

Đừng nói nhiều vô ích, Tần Huyền-Cơ.

Quỳ xuống đây nghe nước Tần kể tội.

HUYỀN-CƠ.

Thiếp nhớ ngày xưa thường quì bên gối

Một người yêu là Tần-Vũ tuổi xanh.

Mắt trong veo chưa vẩn bụi kinh thành

Mồi phú quí Tần Vương chưa bén lưỡi.

Một ngọn đèn khuya, tài năng chói lọi,

Tờ binh thư reo nhẹ dưới hoa đèn.

Đến bây giờ giấy trắng nhuộm mầu đen,

Chàng Tần Vũ đã làm nên danh tướng

Thờ kẻ tiểu nhân…

TẦN-VŨ.                   Là ai?

HUYỀN-CƠ.                   Thiếp tưởng

Từ năm xưa Tần Vũ đã biết rồi?

TẦN-VŨ.

Ta biết gì? Nghịch nữ! Chết mà thôi!

HUYỀN-CƠ.

Thiếp sẽ chết. Nhưng xin chàng mở mắt

Nhìn kỹ xem bao nhiêu lời son sắt

Của tiên hiền, đã rụng dưới mưu cơ.

Tần Liêu Vương hiểm độc có ai ngờ!

TẦN-VŨ.

Ngươi nói sao? Tần Liêu Vương hiền đức…

HUYỀN-CƠ, cười mai mỉa.

Phải, hiền đức! Vì khôn ngoan rất mực

Đã vùi đầu Tần Vũ trong giàu sang.

Nên ngày Dần, năm Tý, đã ngang tàng

Giết Tử-Thắng, cướp ngôi. Nhưng nói mãi

Thêm đau lòng… Chàng bây giờ mê mải

Đường công danh quên phận thiếp gian truân.

Cũng chỉ vì muốn dựng lại nước non Tần.

TẦN-VŨ dịu giọng.

Ngươi kể lại… Ai giết công-tử Thắng?

HUYỀN-CƠ.

Kể làm chi? Tần Huyền-Cơ tội nặng,

Gươm vàng kia, chàng hãy giết ngay đi.

Thôi, hết rồi. Bao ngày tháng loạn ly

Chịu đau khổ và bây giờ chịu chết!

Tần lang ơi! Thiếp cúi đầu đợi chết.

(Nàng khóc rưng rức, quì bên gối Tần-Vũ)

TẦN-VŨ cảm động.

Huyền-Cơ!…

HUYỀN-CƠ. – Không còn đâu nữa Huyền-Cơ

Ngày ái ân không nhớ lại bao giờ,

Chỉ còn thấy một buổi mai oan nghiệt.

Thôi, Tần-Vũ giết em đi là hết!

TẦN-VŨ.

Không! Huyền-Cơ, em kể lại… Chao ôi

Ta biết đâu…

HUYỀN-CƠ. – Em mỏi mệt lắm rồi!

Xin chờ chết.

TẦN-VŨ.       Nhưng ta cần biết rõ

Ai giết ai để tranh ngôi, bảo tộ?

HUYỀN-CƠ, rền rĩ.

Em sót sa. Em buồn tủi bao nhiêu!

Tay ngọc ngà xưa chàng vẫn nâng niu,

Giờ đau rức dưới giây oan buộc tội!

TẦN-VŨ, nâng Huyền-Cơ lên ghế và cởi trói.

Em ngồi đây. Vì em, ta cởi trói.

Kể ta nghe… (Một lát)

HUYỀN-CƠ.

                Hẳn chàng nhớ: Tiên vương

Đã truyền ngôi cho Tử-Thắng…

TẦN-VŨ.                         Lẽ thường

Con phải nối ngôi cha…

HUYỀN-CƠ.                  Nhưng Tử-Xích

Là Liêu-vương bây giờ, người phản nghịch,

Tính hung hăng, cậy thế Tống Trang-công

Mượn binh về dày séo lên non sông,

Giết Tử-Thắng, cướp ngôi. Mà Tử-Thắng

Là ai? – Chàng biết không?

TẦN-VŨ. – Là anh ruột Huyền-Cơ…

HUYỀN-CƠ, thở dài.           Anh ruột tôi…

TẦN-VŨ. – Nhưng sự thật ngày xưa,

Thế-Tử Thắng, sau một kỳ ốm nặng,

Chết trong cung. Vì giang sơn bỏ vắng,

Tống Trang-công nhân dịp tiến quân sang.

Phụ thân ta đánh đuổi lũ tham tàn,

Dựng Tử-Xích làm vua, và tự đó

Thì nước Tần yên vui.

HUYỀN-CƠ.            Chàng còn nhỏ,

Biết gì đâu. – Nhưng chính mẫu-thân tôi

Dặn lại rằng Tử-Xích muốn tranh ngôi,

Pha thuốc độc giết anh, vì mẹ hắn,

Người nước Tống…

TẦN-VŨ.       Ô, truyện đời quanh quẩn

Nếu Liêu-vương cậy thế Tống Trang-công

Đem ngoại binh dầy séo lên non sông,

Thì Tần Quốc đâu bình yên, rực rỡ?

Em nhầm rồi…

HUYỀN-CƠ.       Mẹ tôi, vì thương nhớ

Đã chết đi. Còn riêng một lầu mây,

Tôi thương anh, nhớ mẹ bao nhiêu ngày

Mà ân ái không làm khuây đau đớn.

TẦN-VŨ, chua chát.

À ra thế, Huyền-Cơ ta vẫn tưởng

Đem tình yêu vùi lấp được lòng đau.

Ta mê say, đắm đuối có ngờ đâu

Ngươi nuôi mãi mối căm thù bé nhỏ

Để ngày nay đi mượn quân nước Sở

Định giả thù. Loài ác-tặc nhát hèn!

Chỉ bo bo nghĩ đến nỗi hờn riêng

Mà quên hẳn non sông đầy khổ thống.

HUYỀN-CƠ.

Còn Tần-Vũ mê lầu cao, cửa rộng,

Làm bày tôi không biết trọng vua hiền.

Nước Tần này đâu tốt đẹp bình yên

Kể từ buổi Liêu-vương cầm quyền chính.

Người dân khổ chỉ cúi đầu đi lính,

Chết bao nhiêu ngoài quan ải lạnh lùng,

Để vua Tần mê tửu sắc trong cung.

Chàng nhớ xem: Tần Liêu-vương ích kỷ,

Đầm trong rượu biết bao nhiêu xương tủy!

Biết bao nhiêu huyết lệ của loài người!

Chất muôn từng cực khổ để vui chơi,

Trong giây phút huy hoàng và lộng lẫy.

Lụa ngũ sắc theo tiếng đàn run rẩy,

Lũ cung phi uốn éo cánh dâm thần.

Trên đống xương tàn bụi của muôn dân,

Bọn đại-phu được rảnh tay bóc lột.

Nào bạc vàng, nào vườn tươi, ruộng đất,

Còn bao nhiêu kiếp ngựa kéo trâu cày.

Đem mồ hôi làm yến tiệc vui vầy

Cho lũ sói xa-hoa vô liêm sỉ.

Sở Bình-vương cũng chỉ vì đại nghĩa,

Kéo quân sang hỏi tội đứa tham tàn.

Nhưng cũng may nhờ tài trí của chàng,

Thằng nghịch tử vẫn ngồi yên hưởng phúc.

TẦN-VŨ.

Đừng nói nữa, chính nhà ngươi phản quốc!

Vì thù riêng, nhờ binh lực Sở-vương

Đày nước Tần vào bể máu rừng xương!

Ngươi nhớ xem, bao nhiêu điều ai oán

Một năm ròng! Mà gây ra mầm loạn,

Chính là ngươi đi cầu viện ngoại-bang,

Thân mẫu ngươi, em gái Sở Bình-vương,

Ta nhớ lắm.

HUYỀN-CƠ.     Xin tướng-quân nguôi giận.

Người biết nghĩ, ai không ôm mối hận,

Khi anh tôi, trưởng tử của Tiên-vương

Bị giết đi. Thật trái hẳn đạo thường.

Vâng, mẹ tôi, tuy là người nước Sở,

Cũng chỉ mong non sông Tần rạng rỡ,

Mà mối thù Tử-Xích ở bên lòng,

Bổn phận tôi là phải giả cho xong.

TẦN-VŨ.

Dù Tử-Xích làm vua hay Tử-Thắng,

Ta không biết, chỉ giang sơn là trọng.

Còn nhà ngươi chỉ nghĩ đến việc mình

Để nước Tần được sớm nổi đao binh.

Không có ta, không có muôn dũng-sĩ,

Vì đất nước, vì muôn dân vững chí,

Dựng cờ Tần, đuổi giặc khỏi biên cương,

Thì Huyền-Cơ dù tài sắc phi thường

Cũng không khỏi kiếp tôi đòi, trâu ngựa.

Đi theo giặc… Trời ơi…!

HUYỀN-CƠ.                 Chàng không rõ.

Ngày cuối thu khi sắp sửa từ trần,

Thì mẫu-thân thổn-thức dặn ân-cần:

“Con phải trả mối thù cho Tử-Thắng.”

Từ ngày đó thiếp vẫn nghe văng vẳng

Lời sót thương từ cửa mộ đưa về.

Được gặp chàng… Mùa xuân ấy say mê,

Thiếp chưa kịp trao đổi lời tâm sự.

Thì tháng tám đạo hùng binh nước Sở

Tiến sang Tần, đòi hỏi tội Liêu-vương.

Thiếp chỉ là cánh nhạn lạc chiều sương,

Đành xa mãi rừng Tần…

TẦN-VŨ.                   Và theo giặc!

Ta ngơ ngẩn theo vua về cõi Bắc,

Uổng công tìm ngươi, phản bội Huyền-Cơ!

Ta có ngờ đâu trong họ nhà vua

Mà huynh đệ giết nhau, tranh quyền lợi!

Chính sự chưa yên, dân tình bối rối,

Thì nhà ngươi đi cõng rắn về nhà!
Tần Huyền-Cơ! ngươi hãy giả lời ta:

Dù quyền chính có vào tay Tử-Xích

Thì Liêu-vương phải chăng là kẻ địch

Của Huyền-Cơ?

HUYỀN-CƠ.       Tử-Xích giết anh tôi.

TẦN-VŨ.

Giết Thắng đi công-tử Xích lên ngôi,

Thì Tử-Xích cũng là em quận-chúa.

Nếu chẳng may, đạo hùng binh nước Sở

Khi vào thành bắt được Tần Liêu-vương.

Đem bêu đầu, thì quận-chúa có thương?

Ai tài trí sẽ giữ gìn xã tắc?

Hay quận-chúa dâng nước Tần cho giặc?

HUYỀN-CƠ.

Mất Liêu-vương thì đã có Long-Nha

Là con trai Tử-Thắng, tuổi mười ba…

TẦN-VŨ, cả cười.

Có Long-Nha!… Đứa bé con thơ dại

Đã biết gì? Rồi nước Tần khổ ải

Sẽ đi làm tôi, tớ Sở Bình-vương!

Nhưng cũng may, trên cây cỏ giang sơn,

Còn nung nấu những tấm lòng yêu nước

Đánh tan sở, và đêm qua bắt được
Giặc trong nhà là quận-chúa Huyền-Cơ.

Ngươi biết không? Dân nước vẫn mong chờ

Ngày xử tội nhà ngươi. (Tuốt gươm định chém)

Ngươi phải chết!…

HUYỀN-CƠ.

Tần Lang! Hãy khoan tay đừng vội giết…

Có lẽ nào chàng quên hẳn tình xưa!

Chàng thương em trên cõi thế bơ vơ,

Vì có chàng mới vui cùng năm tháng.

Trên Vân Các những bóng chiều bảng lảng

Thường rồn quanh nàng quận chúa héo hon.

Mẹ chết rồi, thân thiếp chịu cô đơn,

Ngày vắng vẻ, im lìm hơi khói lạnh,

Đêm đìu hiu từng dòng châu lấp lánh,

Khóc mẹ hiền mất hút trong chiêm bao.

Không có chàng, em sống được làm sao?

(Huyền-Cơ nức nở)

TẦN-VŨ, thở dài.

Nhắc làm chi! Ta muốn quên, quên hết!

Chuyện tình duyên chỉ là giây oan nghiệt,

Nhắc làm chi thêm thẹn với lòng mình,

Kể từ ngày Tần, Sở nổi đao binh,

Đây tội ác của Huyền-Cơ quận chúa!

(Ném tập cáo trạng trước mặt Huyền-Cơ)

Đọc lại xem. Bao cuộc đời tan vỡ!

Máu thành sông. Xương thành núi. Vì ai?

Bao gia đình trôi giạt bốn phương giời,

Bởi vì đâu? Vì đâu? Vì một lẽ:

Là Huyền-Cơ theo giặc giết dân Tần.

HUYỀN-CƠ.

Bịa đặt rồi. Ai lừa dối tướng quân,

Gây thù oán giữa Huyền-Cơ, Tần-Vũ?

TẦN-VŨ.

Đó chính thực lời công khai quận chúa,

Lão tướng quân Thái-Bá chép đêm qua.

Đọc lại đi… Ai tàn sát trẻ già,

Núi Nga-Sơn còn nghiêng giời tội ác

Sông Vị-Thủy ai phanh thây sé sác,

Những hài nhi? Ai đốt lửa biên thành?

Tiếng kêu thương chuyển động tới giời xanh,

Năm trăm lính chết thiêu trong ấp Thảo.

Có phải ngươi? Tần Huyền-Cơ vô đạo,

Chỉ vì ngươi muốn giả thù xưa,

Mà non sông quằn quại đến bây giờ.

Loài phản nghịch! Mi đừng đem nước mắt,

Lừa dối ta. Hãy trông đây kiếm sắc

Của hồn oan trên chiến địa bơ vơ,

Gửi về đây báo oán Tần Huyền-Cơ. (định chém)

HUYỀN-CƠ, đỡ tay Tần-Vũ.

Tướng quân hãy bình tâm. Lời dối trá,

Viết vào đây do chính tay Thái-Bá.

Vì Huyền-Cơ nào phải một hung thần,

Mà làm nên tội ác với muôn dân.

TẦN-VŨ.

Nhưng sự thực còn hiển nhiên rõ rệt,

Tiếng than khóc đến bây giờ chưa hết.

Này rừng Vị, này Lạc Ấp, Thùy Cung,

Chưa phải mờ vết tích bọn tàn hung.

HUYỀN-CƠ.

Không Huyền-Cơ chỉ là người yếu đuối.

Khi quân Sở vào kinh thành đánh đuổi

Tần Liêu vương, thì chàng ở xa xôi

Có biết đâu Vân Các cháy ngang giời,

Thiếp chạy trốn, gặp Ngô Cầu nước Sở,

Bắt thiếp đi… Thiếp ngày đêm mong nhớ,

Không biết chàng trên yên ngựa về đâu.

TẦN-VŨ.

Ta về cùng dân chúng thương đau,

Ta về cùng muôn chàng dũng sĩ.

Về nước Tần vinh quang và hùng vĩ,

Còn Huyền-Cơ về với Sở Bình-Vương.

HUYỀN-CƠ.

Vì thù riêng dù muốn giết Tần-Vương,

Thiếp không phải người mượn binh nước Sở.

Trong bước điêu linh, tấm lòng tưởng nhớ,

Càng lênh đênh, càng tủi phận má hồng.

Chàng còn vui cung kiếm, nợ non sông,

Thiếp vò võ nơi biên thùy lạnh lẽo.

Một năm ròng, tấm lòng em héo khô [khô héo]

Nhà không yên, bóng mẹ đuổi theo mình,

Loạn nước Tần thiếp chịu vết ô danh,

Nhà với nước, đều cùng không trọn nghĩa.

Mà người yêu xông pha nơi chiến địa,

Có bao giờ nhớ đến Huyền-Cơ đâu!

Giây oan khiên giờ đã thắt ngang đầu,

Người bạc mệnh có khi nào oán hận.

TẦN-VŨ.

Một năm giời, tuy rằng ta lận đận,

Vì giang sơn, thường vẫn khóc Huyền-Cơ.

Cánh hoa trôi lưu lạc đến bao giờ,

Sao quận chúa lại rạt về biên giới?

Sao quận chúa đi lầm đường lạc lối

Đưa kẻ thù dày séo lên giang-san?

HUYỀN-CƠ.

Sở Bình Vương bị quân Tần đánh đuổi,

Đưa thiếp đi về tới Lũng Thành quan.

Thiếp nhận ra quân giặc Sở bạo tàn,

Nhớ Tần-Vũ thường ngày đêm than khóc.

Càng biết rõ Sở Bình Vương hiểm độc,

Mượn thù riêng của cháu, khởi binh đao.

TẦN-VŨ.

Đó Huyền-Cơ không thấy rõ rồi sao,

Sở đánh Tần, phải đâu vì đại nghĩa.

HUYỀN-CƠ, quì, níu vạt áo Tần-Vũ.

Chàng thương em trong lầu son gác tía,

Vì mẹ hiền ôm mối hận vô biên.

Tuổi còn xanh, lòng nặng những ưu phiền,

Vì Liêu Vương vẫn rắp tâm thù ghét.

Vương bạc ác, đã từ lâu muốn giết,

Cả Huyền-Cơ.

TẦN-VŨ.     Không, quận chúa hiểu nhầm.

Có lẽ nào Tử-Xích lại nhẫn tâm

Giết quận chúa.

HUYỀN-CƠ.      Chàng mải mê cung kiếm,

Có bao giờ xét đến lòng gian hiểm

Của Liêu vương (Khóc nức nở)

Thôi, phận thiếp thảm sầu,

Cánh hoa tàn còn biết gửi về đâu.

TẦN-VŨ, nâng H.C. dậy.

Huyền-Cơ! Huyền-Cơ! Tâm sự gì u uất,

Nói ta nghe. Nàng hãy lau nước mắt.

Một năm ròng, giờ lại ngắm dung nhan.

Ô Huyền-Cơ đã trải mấy gian nan,

Mà phai nhạt đôi má hồng thủa trước.

(Xa xa vẳng đến tiếng hò reo và tiếng trống

chiêng trong ngày hội kinh thành.)

HUYỀN-CƠ.

Thôi bây giờ đã thành người phản quốc,

Thiếp chỉ mong được chết dưới gươm vàng.

Của tướng quân. Ồ, tiếng trống lừng vang,

Quân hò reo, mừng vui ngày thắng trận.

Thiếp có tội, thiếp là người bạc phận,

Xin đừng đưa thiếp đến cung Tần Vương.

Người nước Tần vui vẻ hát trên đường,

Riêng thiếp chịu phận lưỡi dao oan nghiệt,

Chàng, Tần-Vũ, không đành tâm giết thiếp

Thì Huyền-Cơ xin vĩnh biệt!…

(Rút gươm trên án định tự sát. Tần-Vũ

vội vàng đỡ lấy gươm).

TẦN-VŨ.                      Huyền-Cơ!

Ta thương em!…

HUYỀN-CƠ.      Chỉ một lưỡi gươm đưa,

Em được chết, chết trong tay Tần-Vũ

Là mãn nguyện. Không mong gì hơn nữa.

TẦN-VŨ.

Không. Bấy lâu tội ác của Huyền-Cơ.

Thường phải chăng lời bịa đặt vu vơ?

HUYỀN-CƠ, nghẹn ngào.

Em sẽ chết. Sau khi em nhắm mắt,

Mảnh sác thừa xin nhờ chàng chôn cất

Cho hồn em được mát mẻ dưới hoàng tuyền,

Ngày ái ân xưa khỏi thẹn nhân duyên

Em chẳng xứng được thờ chàng mãi mãi,

TẦN-VŨ.

Huyền-Cơ! Huyền-Cơ hãy bình tĩnh lại.

HUYỀN-CƠ.

Những ngày xưa, chàng hãy cố quên đi.

Nàng Huyền-Cơ tội lỗi nhớ làm chi!

Tiếng hò reo!… (ngơ ngác nhìn ra ngoài)

Kinh thành mừng Tử-Xích

Đã xây dựng một nước Tần vô địch.

Giết em đi! Tần-Vũ! Giết cho xong!

Vì đàn ca và yến tiệc trong cung

Đang đợi chàng!

TẦN-VŨ.        Lẽ nào em phải chết?

HUYỀN-CƠ.

Dù có sống, cũng gặp giây oan nghiệt

Buộc vào mình.

TẦN-VŨ.         Em lo ngại gì chăng?

HUYỀN-CƠ, run rẩy.

Tần Liêu-vương!…

TẦN-VŨ.        Dù bạc ác kiêu căng,

Còn Tần-Vũ!…

HUYỀN-CƠ.      Vâng em chỉ còn muốn sống.

Vì chàng thôi! (lắng nghe sợ hãi)

Tiếng hò reo, tiếng trống.

Nổi tưng bừng! Tần chúa sắp vào đây.

Chàng giết em đi. Đừng để bàn tay

Của Tử-Xích đem Huyền-Cơ xé nhỏ.

Chàng! Chàng ơi! Em van chàng che trở,

Cho cánh hoa sắp rụng.

TẦN-VŨ.            Không, Huyền-Cơ,

Ngửng đầu lên! Em không chết bao giờ,

Còn Tần-Vũ, còn tình yêu diễm lệ.

Một cánh tay đã chuyển rung bốn bể

Có lẽ nào không che nổi Huyền-Cơ.

HUYỀN-CƠ, giọng nỉ non.

Nhưng Liêu-Vương thù oán tự ngày xưa

Sẽ theo đuổi và giết em cho được.

Huống chi bây giờ, mang danh phản quốc,

Thì Huyền-Cơ đành phải chết, chàng ơi!

Còn phút giây em vĩnh biệt cõi đời,

Vĩnh biệt cả những ngày vui thủa trước.

Đâu giăng mọc thềm sương, chàng nhẹ bước

Đến bên em? – Đâu chén rượu quỳnh hoa

Em dâng chàng? – Đâu những buổi chiều tà,

Cùng ruổi ngựa qua rừng son núi biếc.

Thế là hết. Em cùng chàng vĩnh biệt.

Em xin chàng tha thứ cho Huyền-Cơ

Vì yếu hèn không trọn vẹn tình xưa.

(Xa xa nổi lên một khúc nhạc véo von)

Chàng nghe chăng? Tiến ca chen tiếng nhạc

Từ cung điện Tần-Vương? Em sẽ thác.

Mời chàng đi cho kịp hội kinh thành,

Em cũng mừng non nước rạng xuân xanh

Và xin chúc Tần Liêu-Vương muôn tuổi,

Mời chàng đi. Kìa, những ai đón đợi

Ở bên thềm? Em sẽ chết, chàng ơi.

(Huyền-Cơ như mê hoảng)

TẦN-VŨ.

Huyền-Cơ! Em tỉnh lại. Ta hiểu rồi.

Ta ở đây cùng em và che trở

Cho em. Có gì đâu, em đừng sợ.

HUYỀN-CƠ.

Nhưng quanh đây rộn rịp bước chân người,

Ngọn lửa mừng thắng trận bốc ngang giời.

Một lát nữa Tần Liêu-Vương sẽ tới,

Tần Huyền-Cơ phản nhà Tần, có tội.

Chàng xưa nay ăn bổng lộc Liêu-Vương

Có thể nào bẻ gãy một thanh gươm,

Của Tần Chúa sắp giết em?

TẦN-VŨ.                         Ta quyết

Không bao giờ để Huyền-Cơ phải chết,

Em yên lòng…

HUYỀN-CƠ.        Nhưng Tử-Xích tham tàn.

Sẽ giết em, và sẽ giết cả chàng,

Dù Tần-Vũ lập công đầu diệt Sở.

TẦN-VŨ.

Không bao giờ Tần Liêu-Vương lại nỡ

Giết em đâu. – Còn Tần-Vũ ngày nay.

Một thanh gươm chống giữ nước non này,

Ai giết nổi?

HUYỀN-CƠ.    Tấm lòng chàng ngay thẳng,

Chắc không biết Tần Liêu-Vương hiếu thắng.

Tính đa nghi. – Chàng có nhớ năm xưa,

Thân phụ chàng dựng hắn lên ngôi vua

Bị bạc đãi, phải sang nhờ nước Lỗ,

Ba năm ròng? Mãi về sau Quốc-Phủ,

Tâu giùm cho, người mới được về Tần.

TẦN-VŨ.

Nhắc làm chi. Từ lúc ta cầm quân,

Coi nước trọng mà vương hầu là nhỏ.

Nên những việc xẩy ra, ta chẳng nhớ,

Chỉ miệt mài trong binh pháp, binh thư.

Bao chuyện triều đình, ta chỉ làm ngơ,

Mặc người khác bon chen đường danh lợi.

Không cần biết lòng Liêu-Vương thay đổi,

Chỉ mong sao giữ vững nước non Tần.

HUYỀN-CƠ.

Chàng không phòng xa thì họa đến thân

Như Thạch Vệ phải chết oan ngày trước.

Vì Liêu-Vương là ông vua bạo ngược,

Đã giết anh thì có thể giết công thần.

TẦN-VŨ.

Ta chỉ vì hạnh phúc của muôn dân

Chưa nghĩ đến phận mình.

HUYỀN-CƠ.           Chàng phải nghĩ,

Từ bây giờ. Tần Liêu-Vương ích kỷ,

Không bao giờ thương sót đến muôn dân.

Thiếp van chàng, vì cơ nghiệp nhà Tần,

Vì dân tộc, vì đời chàng quí báu,

Vì Huyền-Cơ đã mất hai dòng máu,

Vì thương em, chàng phải giết…

TẦN-VŨ, rật mình.                 Giết Liêu-Vương?

Em nói sao?

HUYỀN-CƠ.     Là một việc rất thường,

Ta trừ bỏ một hôn quân vô đạo.

Tìm minh chúa…

TẦN-VŨ.       Nhưng các quan sẽ bảo:

Là nghịch thần, tiếng xấu để nghìn thu.

HUYỀN-CƠ.

Chàng nghĩ nhiều. Chàng giết một ông vua,

Mà tất cả mọi người đều muốn giết

Thì thiên hạ sẽ nhớ người hào kiệt.

Và triều thần sẽ kính phục mà theo,

(Tiếng sôn sao rất gần)

Chàng thấy không, ngoài cửa tiếng quân reo

Liêu-Vương đến!… Thiếp đành tâm chịu chết.

Chàng ở lại cõi trần, nhưng phải giết,

Tần Liêu-Vương, thì nước mới bình yên

Gươm vàng đây! Tần-Vũ! Tuốt gươm thiêng

Giết em đi…

TẦN-VŨ.     Không! Huyền-Cơ phải sống.

Hai tay ta quyết từ nay mở rộng

Giữ đời em, như một bức tường thành.

HUYỀN-CƠ.

Sống làm chi cho uổng phí ngày xanh,

Chết bây giờ trong tay chàng thương xót

Còn hơn sống trong lòng đau lửa đốt,

Và một mai chết nhục, chết âm thầm

Trong bàn tay Tử-Xích… hận nghìn năm.

TẦN-VŨ, giọng cương quyết.

Em chớ ngại. Nếu Liêu-Vương muốn giết

Tần Huyền-Cơ, thì cánh tay hào kiệt

Sẽ vì em mà đâm chết hôn quân.

HUYỀN-CƠ, hé miệng cười.

Có thật chăng! Em sung sướng vô ngần!

Chàng! Tần-Vũ! Em thờ chàng mãi mãi.

(Tiếng nhạc ngựa ròn tàn rồi tắt ở

ngoài cửa, Huyền-Cơ hốt hoảng)

Kìa. Ngựa ai tới bên thềm?

Dù là ai, Quận-Chúa cũng yên.

(Thái-Bá vào đứng sững giữa cửa

tay nưng bộ tam ban triều điển)

LỚP V

TẦN-VŨ,     HUYỀN-CƠ,     THÁI-BÁ

TẦN-VŨ.

Ồ… Tướng quân Thái-Bá đứng ngoài hiên?

THÁI-BÁ, tiến vào đặt khay lên án, đưa T.-V. mảnh giấy.

Vâng, lão đem lệnh của Tần-Vương minh chúa,

Trao tướng quân xử tội ngay nghịch nữ.

(Chỉ vào bộ tam ban triều điển)

Và đây là thuốc độc, đây lụa hồng.

Và gươm vàng, hờn oán của non sông.

Ba cách chết, tùy tội nhân kén chọn,

Tướng quân xử ngay, để vào chầu chúa thượng.

TẦN-VŨ.

Giết Huyền-Cơ? Không!

HUYỀN-CƠ.     Thiếp nói không sai,

Tần Liêu Vương nghiêm khắc, nhưng mà thôi,

Thiếp xin chết để tướng quân trọn đạo.

TẦN-VŨ.

Không bao giờ… Huyền-Cơ…

THÁI-BÁ.        Đây gươm báu

Của Tần-Vương, đây độc dược, lụa hồng,

Ngươi chọn đi, mà kết liễu cho xong

Đời nữ tặc.

TẦN-VŨ.       Không bao giờ, Thái-Bá,

Ngươi có biết là ai? (chỉ Huyền-Cơ).

THÁI-BÁ, cười gằn.     Trong thiên hạ,

Còn người nào không biết đến Huyền-Cơ,

Quận chúa Tần, muốn chiếm đoạt ngôi vua,

Đem giặc Sở dày vò lên Tổ-quốc.

TẦN-VŨ.

Không, Huyền-Cơ chỉ là…

THÁI-BÁ, đanh thép.      Người hại nước,

Bán dân Tần cho giặc Sở Bình Vương.

Phận nữ nhi mà tâm thuật ngông cuồng

Mượn binh Sở giả thù riêng Tử-Thắng.

Đó là người mà nước Tần sỉ mắng

Đến nghìn thu vì tội ác ngang giời,

Đó là người có sắc đẹp tuyệt vời

Con yêu quái mà tướng quân say đắm.

HUYỀN-CƠ.

Chuyện qua rồi! Giặc già đừng nói lắm.

Ta chỉ mong uống máu Tần Liêu-Vương

Và nhà ngươi, phường xiểm-nịnh vô-lương

Theo Tử-Xích để lừa dân, hại nước.

Ai làm giặc? Ai manh tâm phản quốc?

Lão tặc thần can đảm nói ta nghe.

THÁI-BÁ.

Lão chỉ mong công-tử nhớ lời thề.

TẦN-VŨ.

Nhưng Huyền-Cơ không làm nên tội lỗi.

THÁI-BÁ.

Công tử tin sao được lời giả dối.

(Chỉ vào mặt Huyền-Cơ)

Chính nhà ngươi cháu ngoại Sở Bình-Vương

Đội lốt trai, và tay kiếm, tay thương,

Đã tàn sát biết bao nhiêu dũng sĩ

Của nước Tần. – Đêm qua trên núi Vệ,

Chính nhà ngươi đã can đảm nói ra.

Những mưu sâu, tội ác một năm qua,

Ta chép lại, máu còn pha nét mực!

Chính nhà ngươi đã tư thông với giặc

Những tờ thư qua lại hãy còn đây.

(Ném một tập giấy trước mặt

Huyền Cơ… Tần Vũ nhặt xem)

HUYỀN-CƠ, cười nhạt.

Muốn giết ta, Tần chúa khéo đặt bầy.

THÁI-BÁ.

Không. Tần Vương là ông vua quảng đại

Không thù ghét nhà ngươi. Nhưng cô gái

Của nước Tần đã bán nước cầu vinh,

Thì Tần Vương, vì muôn vạn sinh linh,

Vì Tổ-quốc phải bắt ngươi chịu chết.

TẦN-VŨ.

Có lẽ nào người yêu ta phải chết.

THÁI-BÁ.

Lão biết rằng nước mắt của giai nhân

Buổi sáng nay đã lung lạc tướng quân.

(quì trước mặt Tần Vũ

Vũ công tử có nhớ chăng sông núi,

Một năm ròng đã ngậm sầu nuốt tủi

Bao đau thương bao uất hận sót sa

Đã gây lên vì một kẻ đàn bà?

Vũ công tử nhớ chăng muôn dũng sĩ

Đã liều thân phơi thây ngoài chiến địa,

Để giữ gìn đất nước của cha ông?

Loạn nước Tần là mối loạn bên trong

Xin công tử đừng mê man sắc đẹp

Mà quên hết ngày mài gươm luyện thép,

Nuốt đắng cay ngoài muôn dặm biên quan,

Hồn nước Tần còn ảo não than van.

HUYỀN-CƠ.

Thiếp có tội, xin quì đây đợi chết,

Mong tướng quân hãy nhớ lời thống thiết

Của Huyền-Cơ, mà gìn giữ đời mình.

(Chỉ vào mặt Thái-Bá)

Ta phải đâu người bán nước cầu vinh,

Đời hiểu nhầm ta. Ta cười nhắm mắt,

(ngảnh lại Tần Vũ)

Xin tướng quân giết em đi…

THÁI-BÁ.                Nữ tặc,

Sắp chết rồi, còn mê hoặc lòng ai.

Còn nhà ngươi thì sẽ có ngày mai,

Giặc Sở lại tung hoành trên đất nước,

Thì tất cả chúng ta đều vong quốc,

Thân ngựa trâu làm tôi tớ kẻ thù,

Nhục nước Tần là cái nhục nghìn thu,

Vì nghiệt nữ muốn tranh quyền cướp lợi,

Mà không nghĩ đến non sông bối rối

Cần bình yên để xây dựng tương lai.

TẦN-VŨ.

Có lẽ nào. Hay Thái-Bá nói sai,

Tần Huyền-Cơ có khi nào theo giặc

THÁI-BÁ, cười lớn.

Lão nói sai! Cũng chỉ vì nữ tặc

Là Huyền-Cơ, là sắc đẹp tuyệt trần.

Chuyện đã dài xin bái biệt tướng quân.

Thái Bá đi nhanh ra cửa bỗng ngừng

lại rút gươm rồi trở vào.

Lão chỉ vì non sông, vì nghĩa lớn,

Vì muôn dân chịu lầm than đau đớn

Mà cúi xin công tử nhớ lời thề.

Lão nói sai, vì công tử quá say mê

Nhưng việc nước lão tiếc gì tính mệnh.

Xin công tử hãy mau mau quyết định.

Giặc ngồi kia?…

Thái Bá nghiến răng chỉ vào mặt

Huyền Cơ rồi tiến nhanh ra cửa.

LỚP CUỐI

TẦN-VŨ,     HUYỀN-CƠ

HUYỀN-CƠ, thổn thức.   Thôi tất cả trần gian,

Đã sô nhau vùi dập cánh hoa tàn!

Đời bỏ hết. Em chỉ còn Tần-Vũ,

Nhưng tướng quân còn non sông nghĩa vụ.

Hết cả rồi! Chàng hãy cúi thương em,

Giết ngay đi đừng bắt sống thêm,

Để phải chịu lời mỉa mai cay độc.

TẦN-VŨ.

Ta không muốn nghe một ai khóc lóc,

Ngươi im đi. Ngươi có biết lòng ta

Cũng rối ren và tê tái sót sa…

Vì Huyền-Cơ ta không tròn đạo cả.

Có tiếng động bên ngoài quân lính chạy nhớn

nhác và có tiếng kêu gọi: “Lão tướng quân!

Lão tướng quân!” Tần Vũ rật mình chạy ra hiên.

TẦN-VŨ, giọng đau đớn.

Trời ơi! Lão tướng quân Thái-Bá

Tự sát rồi…

Tần Vũ chạy ra còn một mình Huyền Cơ trên

sân khấu. Nàng bình tĩnh nhìn ba thứ sắp giết

mình – cười gằn.

HUYỀN-CƠ.         Còn một chết mà thôi.

TẦN-VŨ, trở vào, mặt bừng bừng

dáng điệu hối hận đau sót.

Chỉ vì ta, Thái-Bá tự sát rồi.

Người lão tướng trung thành và dũng kiệt.

Thái-Bá, vì ta say mê sắc đẹp

Mà chết đi. Còn hổ thẹn nào hơn…

Người tuổi già, vì Tần-Vũ, vì giang sơn,

Vì câu nói của ta mà tự tận.

Không giết Huyền-Cơ thì ta hối hận

Đến bao giờ…

(Ngửng lên)      À, nữ tặc Huyền-Cơ,

Khóc làm chi? Nước mắt cũng là thừa

Sau cái chết của tướng quân Thái-Bá

Ngươi phải chết! Lòng ta là tất cả

Nỗi căm thù ghê gớm của non sông.

Ta mang trên tay một ngọn lửa hồng

Phải đốt cháy tình riêng. Ngươi phải chết!

Ta mang nặng những hồn ma thống thiết,

Những niềm đau nỗi khổ của muôn dân,

Phải giết ngươi để rửa nhục nước Tần.

Ngươi tránh ra! Không, không còn đâu nữa

Nàng Huyền-Cơ dịu dàng trên gấm lụa.

HUYỀN-CƠ.

Thật hết rồi! Nàng quận chúa Huyền-Cơ

Đã say mê Tần-Vũ, đã ước mơ…

TẦN-VŨ.

Đã làm hại nước Tần, đã theo giặc!

Ngươi phải chết! Đây thanh gươm rất sắc

Của lòng dân. Đây một giải lụa hồng,

Và đây là thuốc độc của non sông,

Cả ba thứ kết bao nhiêu oán hận.

Bao hồn oan của những người tử trận,

Bao máu sương, bao đói rét ngoài kia.

Ngươi chọn đi! Nghịch nữ! Chọn ngay đi,

Đừng để ta phải ra tay quyết liệt,

Mối tình xưa, ta quên rồi quên hết.

À Huyền-Cơ! phương úy tử cầu sinh,

Hãy trông đây, ta chém đứt ân tình.

Để rửa sạch mối thù cho Tổ quốc,

Ta phải giết nhà ngươi, loài phản quốc!

(Giơ gươm chém)

HẠ MÀN

Tờ Tiểu thuyết thứ Bảy đến năm 1949 thì được Vũ Đình Long cho tục bản ở Mục Xá, số 1 có viết rõ:

Cô gái nước Tần được đăng liên tục từ số 1 đến số 8, bìa số 1 và số 8:

Một trang đăng Cô gái nước Tần:

Ra được mấy số đầu, chắc nhận thấy báo bán chạy, Vũ Đình Long ra thêm phụ trương, trong đó phụ trương số 2 đăng Chuột thành phố của Tô Hoài mà Vũ Đình Long vừa tìm ra bản thảo. Số 1 và số 3 “đặc biệt” thì đăng hai vở kịch do Vũ Đình Long “Việt hóa”:

https://nhilinhblog.blogspot.com/2015/05/hoang-cam-co-gai-nuoc-tan.html. [Bản gốc đã được trình bày chuẩn một cách vô cùng đẹp.]