Borges, khi bình luận Kafka, đã nói một điều lóe chớp về các precursor, các tiền thân: Kafka tự chọn lấy các precursor của mình (tức là tưởng tượng ra chiều thời gian đảo ngược hẳn lại). Khó có thể nói hay hơn Borges ở lĩnh vực này. Thế nhưng vẫn có người nói còn hay hơn, ít nhất là không kém: Cioran bảo rằng viết không phải là để làm kinh thiên động địa người cùng thời hay hậu thế, mà viết là làm sao để các precursor của ta phải đỏ mặt xấu hổ.
Cioran viết về Borges thì ở đây.
Một câu hỏi cho các amateur: Cioran có bao giờ nhắc đến Marcel Proust không? Có, ít nhất là một lần; Cioran nói không phải T. S. Eliot tạo ra con người rỗng (hollow man), mà đó chính là Marcel Proust: làm sao con người không tuyệt đối rỗng sau khi đã tìm lại thời gian, sau kỳ Thời gian tìm thấy lại.
Những điều Cioran nói, đừng quá cố sức tìm cách trích dẫn, bản thân Cioran từng phát biểu, mọi suy nghĩ nếu muốn dùng lại đều phải viết lại, đừng dùng y nguyên, đừng trích dẫn y xì, vì khi ấy các suy nghĩ không còn giữ nguyên nghĩa nữa. Chính xác thì Cioran không nói về các precursor như tôi vừa trình bày, nhưng ý của Cioran là như vậy. Cioran không nói cho người ta các kiến thức, mà nói cách suy nghĩ. Kant nói gì, Hegel nói gì, Schopenhauer nói gì, thậm chí thực sự nói gì, thì quan trọng quái gì, quan trọng là họ đã nghĩ như thế nào mà lại nói thế, và quan trọng là những điều đó tác động đến ta hay không, tác động như thế nào.
Đọc Cioran, có một cách rất hấp dẫn là tìm xem Cioran viết gì về bất kỳ ai, vì cũng giống Borges, Cioran đọc tất cả mọi thứ. Tinh thần Mỹ Latinh của Borges và tinh thần Balkan của Cioran, đều là ngoại vực, bên lề và tà giáo (một trong những cuốn sách hiếm hoi viết cụ thể và bao quát về Cioran tên là Kẻ tà giáo, L’hérétique), những tinh thần nhai, nghiền, nuốt, khủng khiếp. Borges và Cioran là những đối lập của các trung tâm (Tây Âu và Mỹ) ngày càng trở nên nhợt nhạt hơn vì mất đi tỉ lệ tà giáo, mất đi những con người như Luther trước đây.
Cioran có bao giờ nhắc đến Kafka không? Kỳ lạ là hình như không bao giờ. Tôi chưa bao giờ thấy Cioran nói đến Kafka, trong tất cả mọi cuốn sách, tôi không tin là đã bỏ sót điều gì. Nhưng Cioran từng dành những trang vô cùng độc đáo để viết về Gogol, về Goethe, Beckett, Michaux và vô vàn những người khác. Lẽ ra Cioran phải viết về Kafka, nhưng lại không có. Khoảng trống này rất kỳ lạ, vì Cioran phải là người hiểu Kafka hơn cả, một cách độc đáo nhất, ít ra cũng phải bằng Borges. Cioran, Borges và Kafka, xét cho cùng, là cùng một trận đánh, là những bên lề rực sáng, đe dọa sáng hơn cả vùng trung tâm.
Mùa hè năm ấy, cùng một lúc tôi phát hiện hai điều: Cioran và làm tình trong bồn tắm. Lẽ dĩ nhiên, không phải làm tình trong bồn tắm với Cioran. Tôi bước vào mùa hè năm ấy mà không biết trước rằng đó sẽ là một mùa hè lịch sử, với cái nóng sẽ vật chết hàng chục nghìn người (trong đó không có tôi, tuy rằng xét theo nghĩa nào đó thì có lẽ tôi còn phải gánh chịu một thứ còn mạnh hơn cái chết). Có một lời hứa mơ hồ của một cô gái sẽ từ xa đến với tôi. Tôi bước vào những đợt nóng đầu tiên của mùa hè với một cuốn sách rất dày, in hơn chục tác phẩm của Cioran, mà thời điểm đó tôi còn chưa thực sự biết là ai.
Chắc hẳn những người bạn Rumani đã nhắc tới Cioran với tôi. Cùng khóa tôi có hai người Rumani, một có bộ râu rậm rất đặc trưng valaque, cặp mắt của nhà thông thái, với mọi hứa hẹn sẽ trở thành một chuyên gia latiniste nổi tiếng trong tương lai, người còn lại có bộ ngực còn hứa hẹn nhiều hơn, một bộ ngực nếu không có gì che lên sẽ chân thực là hai bầu vú Balkan rất căng thẳng. Nhưng chính chị gái của cô bé ngực to ấy, ngực không to bằng nhưng hiểu biết thì lớn hơn nhiều, lúc ấy đang làm thêm, giữ chân quản thủ của thư viện trường, một thư viện mênh mông gấp mấy lần cái thư viện mà Anatole France từng miêu tả trong Thiên thần nổi giận, mới là nhân vật chính: vừa gặp tôi, ngắm nghía thế nào đó, cô chị ấy (Maria), cặp mắt nổi bật hơn bộ ngực nhiều, bảo ngay là tôi phải đọc các nhà văn Rumani đi (vì thấy tôi có tâm hồn valaque?), đặc biệt là Horia, Thượng đế sinh ra ở nơi lưu đày, về nhà thơ La Mã Ovide, rồi Mircea Eliade mà mấy năm trước đây tôi hay nhắc đến; chắc trong nhóm tinh tú Rumani ấy có cả Cioran, tôi không nhớ rõ nữa, chỉ nhớ là trước khi nghỉ hè, trường đóng cửa, tôi đã vác từ thư viện theo cuốn tuyển tập Cioran. Nói cho đúng, những người bạn Rumani không chỉ mang tới cho tôi các tác giả cần phải đọc; G., một cô gái Rumani nồng nhiệt bỗng xuất hiện, từ đâu tôi không nhớ nữa, nhưng chúng tôi đã đi xem phim với nhau, và chỉ năm phút sau khi đèn tắt tôi đã cầm được tay cô ấy (đừng bắt tôi nói bất kỳ điều gì về bộ phim hôm ấy; tôi hoàn toàn không biết). Sau buổi chiếu phim, tôi đưa cô ấy về; thật kỳ cục, G. lại trọ ở Maison du Vietnam, tòa nhà xấu thảm hại của khu Cité U, chếch công viên Montsouris. Đứng dưới nhà, tất nhiên tôi hơi hoảng vì trong cái nhà này tôi có không ít người quen, chúng tôi nửa đùa nửa thật bàn nhau xem bây giờ có lên phòng cô ấy hay không. Có điều gì là cấm kỵ đâu, khi ấy là mùa xuân, chúng tôi cũng đều đang ở tuổi thanh xuân đẹp nhất và vụng về nhất.
Tôi có quyển sách có rất nhiều tác phẩm của Cioran để làm bầu bạn trong khoảng đầu hè, và tôi nhanh chóng nhận ra, ngoài rất nhiều sách mà tôi mang theo, quyển Cioran này là bầu bạn gắn bó với tôi hơn cả, và tôi cũng nhận ra (về sau) rằng mức độ nóng của mùa hè bên ngoài chẳng là gì so với độ nóng của Cioran. Đó là một văn chương triết học nóng bỏng. Ở tuổi hai mươi giống như tôi khi chạm trúng vào ông, Cioran, ở Sibiu, Rumani, viết Trên những đỉnh cao của niềm tuyệt vọng. Đó là cuốn sách về thiên đường, về cái chết. Mọi thứ gì của Cioran, độc đáo nhất, tinh túy nhất, đều đã nằm cả trong tác phẩm đầu tay sớm sủa này. Giai đoạn viết tiếng Rumani của Cioran kéo dài qua năm cuốn sách; nhìn vào thời kỳ này, ta hiểu về sau Cioran đã trở thành tà giáo đúng nghĩa chính bởi vì ban đầu lòng tín mộ của Cioran là hoàn toàn: năm cuốn sách này, về sau sẽ nổi tiếng nhất Hoàng hôn của các tư tưởng, nhưng Những giọt nước mắt của các vị thánh mới đặc biệt hay, ở đó Cioran trình bày mình đã suy nghĩ về các thánh như thế nào, “Cả đời mình tôi sẽ quẩn quanh bên cạnh các vị thánh”: trên đời chỉ có các vị thánh và bọn ngu mới đạt được đến một số cảnh giới; “Ở buổi Phán xử cuối cùng, người ta sẽ chỉ cân đong đo đếm những giọt nước mắt mà thôi”; một thời gian dài, Cioran bị ám ảnh sâu sắc bởi các thánh, nhất là các nữ thánh, Thérèse d’Avila, thánh Catherine lằng nhằng gì đó. Sau năm cuốn sách ấy (giống như năm quyển đầu của Cựu ước) là bắt đầu, từ năm 1949, giai đoạn viết tiếng Pháp, mà đầu tiên là Précis de décomposition, Cioran thực sự trở nên lấp lánh đen tà giáo.
Không một ai, kể cả Borges, tạo ra được những trang mang mật độ khủng khiếp đến thế về những điều kỳ quái và mang truyền cảm hứng bất tuyệt. Milan Kundera và Linda Lê lẽ tất nhiên đã tìm thấy ở Cioran sự khích lệ to lớn chưa từng bao giờ có. Cioran thực sự là một ông thánh của nhóm nhỏ những người bên lề không bao giờ chịu suy nghĩ giống người khác và ý thức rõ ràng rằng viết là hành động xói mòn tuyệt đối.
Cioran dạy tôi rằng muốn suy nghĩ thì phải ở chiều ngang. Và qua rất nhiều điều không liền lạc với nhau, tôi hiểu ra ông ấy muốn dạy cho tôi một điều rất quan trọng: đọc có ba cấp độ, cấp độ một là đọc để biết những điều mình chưa biết, cấp độ hai là đọc để biết rằng những gì mình tưởng là đã biết hóa ra mình còn chưa biết, nhưng cấp độ ba mới là đỉnh cao, đọc là để biết rằng những gì mình tưởng còn chưa biết hóa ra mình đã biết rồi, chỉ là chưa bao giờ học được cách lôi nó ra từ sâu thẳm đâu đó bên trong con người bí ẩn muôn trùng, tức là bản thân chúng ta.
Những điều này, và rất nhiều điều nữa, phải nhiều năm về sau, với Cioran lúc nào cũng ở trong tầm với, nhiều đợt vứt bỏ hết để chỉ đọc ông ấy, tôi mới dần nhận ra.
Còn cái mùa hè đầu tiên, khi mọi sự bắt đầu ấy, lời hứa mơ hồ của cô gái cuối cùng đã được thực hiện. Cioran nhanh chóng bị xếp lại, vì cái bồn tắm hóa ra còn nóng bỏng hơn nhiều.