Văn chương miền Nam đứng khựng lại giữa chừng, giữa đà bay của một con chim tuyệt đẹp, một “cú bay thảng thốt tuyệt mỹ”. Lần duy nhất, ta có cả một nền văn chương giống như hóa thạch trong hổ phách. Trước một hóa thạch hổ phách, người ta nên làm gì?
Nên hiểu về hóa thạch, và về hổ phách, tất nhiên. Nhất là sẽ chẳng tích sự gì khi bàn về chuyện nó “bất hạnh” hay không bất hạnh. Những chuyện như thế, tại sao lại phải bàn đến? Cực kỳ vô ích và mất thời gian.
Hổ phách là một vật chất vô định hình, thế cho nên nó đẹp nhưng cũng rất dễ bị nhào nặn, đến mức độ méo mó. Võ Phiến chính là người làm cho khuôn mặt văn chương miền Nam lệch hẳn đi, chứ không phải là ai khác nữa. Võ Phiến là một thử thách ghê người cho cuộc phê bình văn chương. Vị thế người trong cuộc tạo ra một lòng tin nhất định ở người khác, về những nhận định của Võ Phiến. Nhưng Võ Phiến đã không làm công việc ấy, ít nhất là không làm công việc ấy một cách đến nơi đến chốn. Muốn hiểu văn chương miền Nam, yêu cầu đầu tiên chính là gạt Võ Phiến sang một bên.
Tôi đã nhìn thấy một số sự nghiệp phê bình sụp đổ chính ở chỗ đã hiểu nhầm, rất nhầm về Võ Phiến.
Đừng nghĩ ở đây có gì liên quan đến sự hả hê. Không có sự hả hê nào cả, mà là câu chuyện của “Un fait est un fait” (Chateaubriand). Tôi thường nói, trong văn chương không có lòng thương xót, thì ngược lại, và cũng chính vì thế, trong văn chương không có sự hả hê. Nếu chứng kiến một việc gì đó, những trận đòn hội chợ, mà trong lòng bạn chợt thấy hả hê, thì đích thị bạn là một con dòi rồi đấy. Không có phép thử nào chính xác và đáng tin cậy hơn được nữa đâu. Những lúc có mấy câu chuyện như vậy xảy ra, tôi bèn thực hành một trong những môn thể thao ưa thích của tôi: đếm. Tức là một, hai, ba, bốn, chính xác là như thế, đúng hơn là: một con dòi, hai con dòi, ba con dòi, et cetera. Lần nào cũng như lần nào, đông đến nhức cả đầu. Một con dòi để ria thích khoe âm nhạc nhưng chơi nhạc cực dở, một con dòi đầu trọc, một con dòi mặt thư sinh giờ đã bủng hết cả ra, một con dòi đắt tiền, et cetera.
Võ Phiến, và cả Vũ Trọng Phụng nữa, đó chính là những thử thách ghê người. Cũng tương tự ở trường hợp Võ Phiến, không ít sự nghiệp phê bình sẽ sụp đổ vì trường hợp Vũ Trọng Phụng. Ở đây thì còn nhiều hơn nhiều, hơn rất nhiều.
Lại còn Nhã Ca: tại sao lại có thể nghĩ Nhã Ca là một nhà văn lớn được? Ở Việt Nam mới chỉ có duy nhất một nữ thánh văn chương mà thôi: Đoàn Thị Điểm.
Võ Phiến thì giống như Tô Hoài. Tôi còn muốn nói hơn thế nữa, Võ Phiến thì chính là Tô Hoài. Ở đây là một sự thông nhau. Sự thông nhau ấy không dễ nhìn, nhưng có thể lấy thêm một ví dụ: Võ Phiến và Tô Hoài đâu có cách xa Gabriel García Márquez. Thông nhau hết, thứ nhất là cái đặc điểm mỗi người trong số họ đều tự tạo ra một thế giới riêng, làng Macondo, mảnh đất đại đồng của đám côn trùng, thế giới tính dục đồng quê miền Trung Việt Nam. Và hơn thế nữa, họ chung nhau cái đặc điểm, công trình văn chương của họ cực kỳ to lớn và vững chãi chừng nào họ còn tồn tại, được tiếp sức bởi tính cách mạnh mẽ và tầm vóc như thể rất to lớn của họ. Rồi tan biến (tất nhiên cũng không phải là tan biến hết). Như thế cũng đã là cực nhiều, nhưng như thế cũng là quá ít.
Võ Phiến làm cho người ta tưởng tạp chí Bách khoa là quan trọng. Không phải thế. Nhất là, Võ Phiến làm lu mờ đúng nhân vật quan trọng nhất của văn chương miền Nam, thủ lĩnh (mà lại không hề trong bóng tối) của văn chương miền Nam: Thanh Tâm Tuyền.
Chỉ có thể thực sự hiểu văn chương miền Nam nếu không quá tin lời Võ Phiến.
Văn chương miền Nam, thật ra người ta có biết về nó hay không? Tôi ngờ là không hề. Cách đây một thời gian, tại Sài Gòn, tôi gặp mấy nhân vật của Sài Gòn, những người lúc nào cũng thể hiện tinh thần cương quyết ngút trời về bảo vệ di sản văn chương miền Nam. Thực tâm tôi rất muốn tìm hiểu thêm về một số vấn đề. Nhưng điều duy nhất tôi nhận ra là bản thân họ đâu có biết gì về văn chương miền Nam. Thật là nực cười, thế mà luôn miệng chửi rủa sự vùi dập, sự lãng quên, sự quá đáng. Trước hổ phách, không phải ai cũng biết phải làm gì.
Văn chương miền Nam, đó là Bùi Giáng, là Bình Nguyên Lộc, là những đàn anh lớp trước, Nhất Linh là điểm hội tụ lớn nhất, nhưng đặc biệt quan trọng là Hồ Hữu Tường. Đâu có thể hiểu văn chương miền Nam nếu không lần lại từ Hồ Hữu Tường, từ thời “Văn chương tranh đấu miền Nam” nhưng không liên quan đến những thơ ca rất dở của những Ngô Kha và Võ Quê, “Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa” et cetera, mà là giai đoạn của những Nguyễn Bảo Hóa tức Tô Nguyệt Đình, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà. Văn chương miền Nam, nhất là, đã được hưởng cả một bầu tinh túy từ miền Bắc.
Thanh Tâm Tuyền, nhưng không chỉ như vậy. Hai nhân vật văn chương cột trụ của miền Nam một thuở là Viên Linh và Dương Nghiễm Mậu. Cả ba người đều chung một xuất thân, một kiểu di chuyển, ở giai đoạn đầu tiên; thậm chí Viên Linh và Dương Nghiễm Mậu còn gần sát nhau nữa, cho dù về sau này có tách hẳn ra (sẽ rất cần một nghiên cứu đặc biệt tỉ mỉ về trường Chu Văn An).
Tôi đã đi qua, trong vài năm vừa rồi, một văn chương miền Nam, với một sự tôn trọng hết mức, với một lòng ngưỡng mộ chân thành vẻ đẹp của hóa thạch hổ phách. Kể từ ngày tôi tình cờ phát hiện cùng một lúc ba cuốn sách, 41 năm làm báo của Hồ Hữu Tường, Gia tài người mẹ của Dương Nghiễm Mậu và Đò dọc của Bình Nguyên Lộc, cách đây đã nhiều năm, tôi biết mình cần phải cố sức hiểu. Văn chương ấy xứng đáng như thế. Giờ đây đã ở đoạn giữa chừng.
Nhưng tôi sẽ không làm thêm quá nhiều, mặc dù những gì tôi tìm hiểu được hoàn toàn đủ cho nhiều thứ. Tôi sẽ chỉ còn nói đến một số điều theo tôi là quan trọng, không thể bỏ qua. Cách đây vài năm, tôi tự nguyện rút khỏi một nghiên cứu tập thể vào đúng lúc sau rất nhiều chờ đợi nó đã có thể khởi động.
Có một điều gì đó ngăn cản tôi. Tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều, bình thường tôi chẳng mấy khi suy nghĩ, nhưng về việc làm như thế nào với văn chương miền Nam thì tôi đã thực sự phải nghĩ.
Rốt cuộc, tôi đã hiểu ra, vấn đề ở đây chính là đạo đức. Ta không thể lờ đạo đức đi được, ở một bình diện tột cùng, nếu muốn bước sang một cái khác. Đạo đức ở đây có nghĩa là, tôi có thể tìm hiểu văn chương miền Nam, có thể biết đích xác nhiều thứ căn cốt ở nó, nhưng chỉ dừng ở đó mà thôi. Tôi đã có thể, mà không gặp vấn đề gì về mặt đạo đức, thực sự làm nhiều điều về văn chương tiền chiến, nhưng ở đây thì không. Rồi đây sau tôi, sớm thôi, sẽ có một người trẻ tuổi biết phải làm gì với văn chương miền Nam. Một thế hệ nữa là đã có thể. Tôi nghĩ đó cũng sẽ là một người miền Bắc. Trước cái đẹp, đầu tiên phải là sự kinh ngạc đã.
Tôi sẽ chỉ dừng ở mức tối thiểu. Mức tối thiểu cần thiết cho tôi trong công việc dựng ra bức tranh của cái mà tôi gọi là Con đường văn chương Việt Nam. Nó sẽ là tên một cuốn sách đấy. Mãi mà tôi không in sách, thì tất nhiên là tôi chờ đợi. Giờ tôi đã bằng cỡ tuổi Khái Hưng khi ông ấy bắt đầu in sách, kém Mặc Đỗ một chút.
Còn lại một việc nữa: văn chương miền Nam đâu có dừng lại ở năm 1975. Đây mới là điều huyền bí nhất. Tất nhiên là không thể như vậy được. Giờ, ta cần xác định, đâu là những cột trụ quan trọng nhất để nói đến một sự bảo toàn cho di sản văn chương miền Nam. Với tôi, hiển nhiên không thể là Võ Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân vật từng hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước 1975. Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của họ lại nằm ở đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó hiểu và khó nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra đi ngay từ đầu, ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người đã, ngược hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra đi vào khoảng giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến cái ngày, ngoài việc được viết về một số người khác, được nói đến đối thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ.
Văn học miền Nam: Phan Khoang và Phan Du
Phan Nhật Nam
Võ Phiến
Văn học miền Nam: Thơ
Thơ (tiếp)
Bùi Giáng
Mặc Đỗ
Thanh Tâm Tuyền
Văn học miền Nam: Một số “tác giả lẻ”
Nguyễn Mộng Giác
Bình Nguyên Lộc
Y Uyên và Thảo Trường
Nguyễn Đình Toàn
Huỳnh Phan Anh
Văn học miền Nam: Thi sĩ Quách Thoại
Nguyên Sa
Hoàng Hải Thủy
Văn học miền Nam: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu
(các bài trên đây sẽ sớm được bổ sung và chỉnh sửa)