Niên biểu và tác phẩm của Foucault mà tôi soạn ra, nhiều thuật ngữ vẫn ở tình trạng tạm bợ. Bộ sách Dits et Écrits (Nói và viết) gồm 4 tập, khoảng 3.000 trang, Gallimard ấn hành năm 1994, tập hợp các bài viết lẻ và trả lời phỏng vấn của Foucault. Di chúc của Foucault viết rõ: Pas de publication posthume, không được in những gì còn ở dạng bản thảo, nên sau này ngoài bộ Dits et Écrits này sẽ chỉ có 13 quyển bài giảng của Foucault tại Collège de France (1971-1984) cùng một số bài giảng khác in bên Mỹ, được coi là các phát ngôn chính thức của Foucault.
Niên biểu Michel Foucault
(các sự kiện chính; nguồn: bộ sách Dits et Écrits)
1926. 15/10: Foucault sinh ra tại Poitiers, trong một gia đình cả nội ngoại đều là bác sĩ; ông nội Foucault từng là bác sĩ chữa bệnh cho người nghèo tại Nanterre, tại đây có một phố mang tên Foucault.
1942. Nhận bằng tú tài cổ điển (baccalauréat classique) mặc dù chưa đủ tuổi.
1943. Vào học lớp dự bị dành cho học sinh muốn thi các trường lớn (grande école) tại Poitiers (trường Henri-IV).
1945. Thi trượt ENS (Sư phạm phố Ulm, Paris), tiếp tục học dự bị tại trường Henri-IV Paris. Lúc này Jean Hyppolite (người dịch Hiện tượng học tinh thần của Hegel) đang dạy triết học tại đây. Jean Hyppolite chấm điểm rất cao cho các bài luận triết học của Foucault, báo hiệu một tương lai triết học đầy hứa hẹn; sau này Foucault sẽ thế chỗ Hyppolite để dạy tại Collège de France sau khi Hyppolite qua đời.
1946. Thi đỗ vào ENS.
1947. Maurice Merleau-Ponty trở thành répétiteur (chức danh đặc biệt dành cho những người chuyên đào tạo học sinh chuẩn bị thi lấy bằng agrégation tức thạc sĩ giáo dục) ngành tâm lý học tại ENS; các bài giảng của Merleau-Ponty đã hướng lối cho Foucault chuẩn bị luận án về sự ra đời của tâm lý học ở các nhà tư tưởng hậu-Descartes.
1948. Lấy bằng licence triết học tại Đại học Sorbonne. Cũng năm này, Louis Althusser trở thành répétiteur ngành triết học tại ENS. Foucault định tự tử.
1949. Lấy bằng licence tâm lý học. Bắt tay làm luận án cao học ngành triết dưới sự hướng dẫn của Jean Hyppolite (về Hegel).
1950. Vào Đảng Cộng sản Pháp. Định tự tử lần thứ hai. Thi trượt kỳ thi lấy bằng agrégation.
1951. Đỗ bằng agrégation ngành triết học (đề tài lớn của kỳ thi lần này mà Foucault rút thăm trúng là “tính dục”). Trở thành répétiteur ngành tâm lý học tại ENS; các bài giảng hằng tuần của Foucault có rất đông người dự, trong đó có Jacques Derrida, Paul Veyne, Jean-Clause Passeron, Gérard Genette, Maurice Pinguet.
1952. Bắt đầu mối quan hệ lâu dài và say mê với nhạc sĩ Jean Barraqué (1928-1973), niềm hy vọng lớn nhất của âm nhạc Pháp kể từ Claude Debussy.
1953. Bắt tay nghiên cứu các bản thảo của Husserl, lúc này đã được Van Breda chuyển lại cho Merleau-Ponty và Trần Đức Thảo. Thế chỗ Althusser ở vị trí répétiteur ngành triết ở ENS.
1954. Xuất bản tác phẩm đầu tay, Bệnh tâm thần và nhân cách.
1955. Được Bộ Giáo dục Quốc gia cho nghỉ một năm để sang làm việc tại Uppsala, Thụy Điển. Tham gia một cuộc sống trí tuệ sôi động ở đây với rất nhiều trí thức thường xuyên gặp gỡ. Năm 1957 Foucault sẽ gặp Albert Camus tại Stockholm khi Camus sang đây nhận giải Nobel Văn chương. Tại Paris dịp Giáng sinh, gặp Roland Barthes lần đầu tiên, khởi đầu một tình bạn lâu dài.
1957. Phát hiện tác phẩm của Raymond Roussel, nhà văn ít được chú ý, mà Foucault sẽ viết riêng một cuốn sách xuất bản năm 1963.
1958. Sang Ba Lan, ở chức vụ tham tán văn hóa cho Đại sứ Murin des Roziers.
1960. Georges Canguilhem, người hướng dẫn luận án tiến sĩ cho Foucault, giới thiệu Foucault với Jules Vuillemin, khi đó là trưởng khoa triết học của Đại học Clermont-Ferrand; Foucault được đề nghị làm maître de conférences (tương đương phó giáo sư) chuyên ngành tâm lý học tại đây. Luận án Folie et Déraison (Điên và loạn thần kinh) bị NXB Gallimard từ chối. Bắt đầu cuộc sống rất điển hình của giới giáo sư đại học Pháp: sống ở Paris đồng thời giảng dạy ở tỉnh.
1962. Làm quen với Gilles Deleuze khi ấy vừa cho xuất bản Nietzsche và triết học tại NXB PUF, khởi đầu một tình bạn lâu dài nhưng sẽ có nhiều xung đột trong tương lai. Chính thức trở thành giáo sư (professeur) ngành tâm lý học tại Đại học Clermont-Ferrand.
1963. Jacques Derrida công khai phê phán Foucault về diễn giải của Foucault đối với tác phẩm của Descartes, trong Lịch sử bệnh điên.
1964. Xuất bản phiên bản rút gọn của Lịch sử bệnh điên trong tủ sách 10/18 của NXB Plon. Sang Tunisie, viết xong phần đầu Từ và vật.
1965. Từ chối nộp hồ sơ ứng cử vị trí giáo sư tâm lý-xã hội học ở Sorbonne, mặc dù được nhà xã hội học Gurvitch đề nghị. Sang Sao Paulo theo lời mời của khoa triết học tại đây.
1966. Nhận lời cùng Deleuze phụ trách ấn hành bản tiếng Pháp bộ Toàn tập của Nietzsche, đã được Colli và Montinari biên soạn trước đó. Sang hội thảo tại Budapest, khám phá rằng các trí thức Đông Âu lấy cấu trúc luận làm một tư tưởng thay thế cho chủ nghĩa Marx. Từ và vật được ấn hành, đợt sách đầu tiên bán hết trong vòng một tháng rưỡi. Tờ L’Express coi tác phẩm này là cuộc cách mạng lớn nhất trong triết học kể từ chủ nghĩa hiện sinh. Một số cách nói của Foucault trong Từ và vật nhanh chóng trở thành thành ngữ trong giới trí thức, như “cái chết của con người” hoặc “ở thế kỷ mười chín chủ nghĩa Marx giống như cá gặp nước”. Cả tháng Bảy, Foucault dành rất nhiều thời gian mỗi ngày để viết trả lời những đợt tấn công vào quan niệm “cái chết của con người”. Quen biết và giao tiếp qua thư với họa sĩ René Magritte, mà sau này Foucault sẽ viết một tác phẩm nhỏ để vinh danh. Quyết định sang sống ở Tunis, nơi ông được đề nghị, lần đầu tiên, một chân giáo sư ngành triết học (chứ không phải tâm lý học). Jean-Paul Sartre tấn công cấu trúc luận, nhất là Althusser và Foucault, trên tạp chí L’Arc và viết: “Foucault là thành lũy cuối cùng của giới tư sản”.
1967. Bắt đầu tập trung nghiên cứu triết học phân tích của Wittgenstein và các triết gia anglo-saxon. Các giờ dạy của Foucault tại Đại học Tunis luôn luôn đông quá tải. Ở Anh ấn hành bản dịch Lịch sử bệnh điên. Quyết định không bao giờ ứng cử vào Sorbonne nữa, thay vì vậy nộp hồ sơ vào trường Nanterre mới thành lập; cùng lúc, Foucault trở thành một thành viên của ban tuyển chọn học sinh của ENS. Bắt đầu viết cho tờ Le Nouvel Observateur.
1968. Ở Tunis, Foucault cho phép các sinh viên nổi loạn in truyền đơn tại nhà mình. Khi cuộc nổi loạn của sinh viên bùng nổ tại Paris, Foucault đang ở Tunis, ngày 27/5 mới về tới Paris. Chính thức rời Tunis về lại Paris nhận chức giáo sư tại Đại học Nanterre, đồng thời tham gia thành lập một trường đại học mới nữa, Vincennes (theo lời đề nghị của Hélène Cixous).
1969. Tại Vincennes, Foucault tham gia cùng sinh viên đối đầu với cảnh sát. Ấn hành Khảo cổ học kiến thức tại Gallimard. Collège de France bỏ phiếu đổi ghế giáo sư phụ trách “Lịch sử tư tưởng triết học” mà Jean Hyppolite từng giữ (đã qua đời ở thời điểm này) thành ngành “Lịch sử các hệ thống tư tưởng”, theo đề xuất của Jules Vuillemin, để chuẩn bị cho Foucault.
1970. Được mời sang Đại học Buffalo, Mỹ. Foucault chính thức được bầu vào Collège de France. Được mời sang Nhật Bản lần đầu tiên, thực hiện nhiều bài giảng và trả lời nhiều cuộc phỏng vấn (chuyên gia về Foucault lúc này tại Nhật Bản là giáo sư Moriaki Watanabe). Foucault phê phán Althusser trên tạp chí La Pensée về các vấn đề liên quan đến Nhà nước, chủ đề mà Foucault sẽ phát triển trong Giám sát và trừng phạt sau này.
1971. Thành lập GIP (Groupe d’information sur les prisons – Nhóm thông tin về các nhà tù), khởi đầu cho các hoạt động rất tích cực liên quan tới cải thiện hệ thống nhà tù ở Pháp. Bị George Steiner chỉ trích trên The New York Times Books Review. Được mời sang Montréal, Canada. Lần đầu tiên gặp Jean-Paul Sartre, trong một hoạt động tranh đấu chính trị. Được mời sang Eindhoven, Hà Lan, để tranh luận với Noam Chomsky về vấn đề bản tính con người; sau này Chomsky sẽ bình luận cuộc tranh luận đó trong Language and Responsibility.
1972. Cùng nhiều trí thức tổ chức “sit-in” (biểu tình ngồi) tại trụ sở Bộ Tư pháp nhằm kêu gọi cải thiện chế độ nhà tù. Sau đó không lâu Foucault bị cảnh sát bắt, rồi liên tục cùng Jean-Paul Sartre tranh đấu trong vụ việc nhà máy Renault. GIP giải tán, thành lập CAP (Comité d’action des prisonniers – Ủy ban hành động của tù nhân), rồi ADDD (Association de défense des droits des détenus – Hiệp hội bảo vệ quyền của tù nhân).
1973. Giảng một loạt bài tại Montréal. Sang New York làm việc một thời gian.
1974. Giảng bài tại Rio de Janeiro, chủ yếu về tâm thần học của thế kỷ XIX, từ quan điểm “phả hệ”.
1975. Xuất bản Giám sát và trừng phạt, sự ra đời của nhà tù. Tờ Le Nouvel Observateur in một chuyên đề về những nhân vật quan trọng nhất của giới đại học Pháp thời điểm ấy, Foucault xếp bên cạnh Lacan, Lyotard và Barthes. Lần đầu tiên sang California, giảng bài tại Berkeley, nơi Foucault còn quay lại nhiều và rất thành công. Cùng một số trí thức Pháp khác sang Tây Ban Nha, đấu tranh chống chế độ Franco.
1976. Bắt đầu chuyển giờ dạy hằng tuần tại Collège de France nhằm làm giảm lượng thính giả quá lớn. Ấn hành tập đầu tiên của Lịch sử tính dục; bộ sách được tiếp nối 8 năm sau. Từ 1976 Foucault hầu như không cho in tác phẩm nào nữa.
1977. Gần gũi với các “triết gia mới”, nhất là André Glucksmann. Tại Liên Xô, Từ và vật được dịch và được truyền tay nhau một cách kín đáo. Foucault bắt đầu nghiên cứu sâu về các nhân vật giai đoạn đầu của Nhà thờ, nhằm phân tích các khía cạnh của hoạt động và cơ chế vận hành của Thiên chúa giáo.
1978. Các bài giảng tại Collège de France bắt đầu đặc biệt tập trung vào vấn đề “thiết trị” (gouvernementalité). Bắt đầu viết tiếp tập hai cho Lịch sử tính dục, bàn về quan niệm Kitô giáo về da thịt con người; bản thảo này sẽ bị Foucault hủy bỏ. Sang Nhật Bản lần thứ hai, chủ yếu để thuyết trình về vấn đề “Tính dục và quyền lực”. Bị tai nạn ôtô, phải vào viện. Nhận lời nghiên cứu về Iran. Sang Iran (Téhéran), khởi đầu cho một loạt hoạt động tích cực liên quan tới Iran.
1979. Đóng góp bài cho số đầu tiên của tờ báo đầu tiên dành cho người đồng tính tại Pháp, Le Gai Pied. Cho in trên tờ Le Monde một bài báo ủng hộ tự sát; bị nhiều báo khác chỉ trích. Sang Stanford giảng bài.
1980. Xuất bản tác phẩm The Will to Truth của Alan Sheridan, nghiên cứu dài đầu tiên về Foucault trong tiếng Anh. Thành công vang dội tại Mỹ. Sang New York giảng bài về chủ đề “Tính dục và cô đơn”. Sang Princeton giảng bài về chủ đề “Sự ra đời của chính trị-sống”.
1982. Cùng John Searle, Umberto Eco… tham gia một đợt hội thảo dài tại Toronto, trong đó Foucault bàn về chủ đề “Nói thật về chính mình”. Sang Vermont giảng bài về chủ đề “Các công nghệ về mình” (Technologies of the Self).
1983. Nghiên cứu sâu hơn và trình bày trong các bài giảng về vấn đề “Thiết trị bản thân và những người khác”, xoay quanh khái niệm parrhêsia tức nói sự thật trong văn học cổ đại. Gặp gỡ và tranh luận nhiều lần với Habermas. Xuất bản Michel Foucault, an Annotated Bibliography của Micheal Clark, thư mục quan trọng đầu tiên về Foucault, gồm khoảng 3.000 đề mục. Giảng bài tại Berkeley về các nghệ thuật về bản thân và cái viết về bản thân. Bị nhiều người chỉ trích vì giữ thái độ im lặng.
1984. Bệnh Sida mà Foucault mắc phải bắt đầu trầm trọng nhưng vẫn dạy tại Collège de France về parrhêsia và sửa bản thảo chuẩn bị in các tập tiếp theo của Lịch sử tính dục. Tháng Năm, tờ Magazine Littéraire thực hiện một chuyên đề dành riêng cho Foucault. Qua đời ngày 25 tháng Sáu.
Tác phẩm của Michel Foucault
1954. Maladie mentale et Personnalité [Bệnh tinh thần và nhân cách], PUF, tủ sách “Initiation philosophique”
1961. Folie et déraison. Histoire de la folie à l’âge classique [Điên và loạn thần kinh. Lịch sử bệnh điên thời cổ điển], Plon
1962. Maladie mentale et Psychologie [Bệnh tinh thần và tâm lý học], PUF, tủ sách “Initiation philosophique” [phiên bản sửa đổi của Maladie mentale et Personnalité]
1963. Naissance de la clinique. Une archéologie du regard médical [Sự ra đời của bệnh viện. Một khảo cổ học về cái nhìn y học], PUF
1963. Raymond Roussel, Gallimard
1966. Les Mots et les Choses. Une archéologie des sciences humaines [Từ và vật. Một khảo cổ học về các khoa học nhân văn], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des sciences humaines”
1969. L’Archéologie du savoir [Khảo cổ học kiến thức], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des Sciences humaines”
1971. L’Ordre du discours [Trật tự diễn ngôn], Gallimard [bài giảng mở đầu tại Collège de France, 2/12/1971]
1972. Naissance de la clinique. Une archéologie du regard médical [Sự ra đời của bệnh viện. Một khảo cổ học về cái nhìn y học], PUF, tủ sách “Galien” [với một số chỉnh sửa]
1972. Histoire de la folie à l’âge classique [Lịch sử bệnh điên vào thời cổ điển], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des histoire” [lần tái bản có thêm hai văn bản: “Mon corps, ce papier, ce feu” và “La folie, l’absence d’oeuvre”]
1973. Ceci n’est pas une pipe [Cái này không phải là cái tẩu], Fata Morgana, Montpellier [in lại bài báo đã đăng trên Cahiers du chemin, số 2, 15/1/1968]
1975. Surveiller et punir. Naissance de la prison [Giám sát và trừng phạt. Sự ra đời của nhà tù], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des histoires”
1976. Histoire de la sexualité, t.1: La volonté de savoir [Lịch sử tính dục, t.1: Ý chí hiểu biết], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des histoires”
1984. Histoire de la sexualité, t.2: L’usage des plaisirs [Lịch sử tính dục, t.2: Sử dụng ham muốn], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des histoires”
1984. Histoire de la sexualité, t.3: Le souci de soi [Lịch sử tính dục, t.3: Chú tâm vào bản thân], Gallimard, tủ sách “Bibliothèque des histoires”
1985. Discourse and Truth. The Problematization of Parrhesia [Diễn ngôn và chân lý. Đặt vấn đề về Parrhesia], Northwestern University, Evanston, Illinois (in theo sáu bài giảng của Michel Foucault trình bày tại Đại học Berkeley, 11/1983] [in sau khi Michel Foucault mất]
Dits et écrits [Nói và viết], 4 tập, Gallimard, tập hợp các bài viết lẻ của Michel Foucault, do Daniel Defert và François Ewald biên soạn, với sự cộng tác của Jacques Lagrange
Sách in từ các bài giảng của Michel Foucault tại Collège de France, đều do Gallimard và Le Seuil ấn hành trong tủ sách “Hautes Études” từ cuối những năm 1990 cho tới gần đây:
1970-1971: La Volonté de savoir [Ý chí hiểu biết]
1971-1972: Théories et Institutions pénales [Các lý thuyết và thiết chế hình luật]
1972-1973: La Société punitive [Xã hội trừng phạt]
1973-1974: Le Pouvoir psychiatrique [Quyền lực tâm thần]
1974-1975: Les Anormaux [Những kẻ bất bình thường]
1975-1976: “Il faut défendre la société” [“Cần phải bảo vệ xã hội”]
1977-1978: Sécurité, territoire, population [An ninh, lãnh thổ, dân chúng]
1978-1979: Naissance de la biopolitique [Sự ra đời của chính trị-sống]
1979-1980: Du gouvernement des vivants [Về thiết trị với người sống]
1980-1981: Subjectivité et Vérité [Tính chủ thể và chân lý]
1981-1982: L’Herméneutique du sujet [Thông diễn học chủ thể]
1982-1983: Le Gouvernement de soi et des autres [Thiết trị bản thân và những người khác]
1983-1984: Le Gouvernement de soi et des autre: Le Courage de la vérité [Thiết trị bản thân và những người khác: sự can đảm của chân lý]
Các công trình khác:
Moi, Pierre Rivière, ayant égorgé ma mère, ma sœur et mon frère: un cas de parricide au XIXe siècle, Gallimard, 1973
Herculine Barbin dite Alexina B., Gallimard, 1978
Les Machines à guérir, aux origines de l’hôpital moderne, Pierre Mardaga, Paris, 1979
Arlette Farge, Michel Foucault, Le Désordre des familles. Lettres de cachet des archives de la Bastille au XVIIIe siècle, Gallimard, 1982
https://nhilinhblog.blogspot.com/2010/07/nien-bieu-foucault.html