Con phượng hoàng đích thực của văn chương Đức, Rilke, ngay trước khi rời khỏi đây để đến một ailleurs (tên tập thơ năm 1948 ấy của Henri Michaux, Ailleurs, thâu tóm một trong những tinh túy sâu thẳm nhất của thơ), đã có tiếp xúc (chạm cánh phượng hoàng) với một phượng hoàng khác, một ailleurs khác, Marina Tsvetaieva.
Đó là năm 1926. Rainer Maria Rilke, cho tới thời điểm này, đã sống ở Muzot (Valais) được năm năm. Sau quãng đời tuổi trẻ giông bão (Praha, rời bỏ, nước Nga, Tolstoi, người phụ nữ gốc Saint-Petersburg phủ bóng trùng lên những thiên tài lớn nhất một thời, Lou Andreas-Salomé), năm 1902 lần đầu tiên Rilke đến Paris, trở thành thư ký cho Rodin trong vài năm rồi cãi cọ, đoạn tuyệt. Nước Đức, nước Ý, nước Nga sẽ không để lại cho Rilke nhiều dấu ấn bằng nước Pháp. Malte Laurids Brigge là những gì Paris mang lại, Hôtel-Dieu, cái chết, những con người mang nhiều khuôn mặt. Sau mười năm sáng tạo điên rồ và dịch chuyển còn điên rồ hơn, đến 1912, Rilke bắt đầu viết các “Élégie” (bi ca/sầu ca) danh tiếng, nhưng ngay lập tức rơi vào ngõ cụt của sự viết. Kéo dài mười năm liền của bí bách, chiến tranh, mãi đến 1922, các Élégie mới hoàn thành được. Và không ngờ nhất là sau đó rồi lại còn có các xon nê cho Orphée, và còn bất ngờ hơn, năm loạt thơ viết bằng tiếng Pháp. Muzot đã mang lại cho Rilke đợt sinh khí cuối cùng, cũng là lần hóa thân tuyệt đẹp của phượng hoàng hồi sinh từ đám tro (chẳng biết là lần hồi sinh thứ mấy).
Món trả nợ của Rilke cho nước Pháp trước đó đã gồm bản dịch một tác phẩm của André Gide (tương ứng trong tiếng Việt là Đứa con đi hoang trở về: xem ở đây, quyển có bìa màu đen), rồi bản dịch Charmes của Paul Valéry. Dường như thấy như thế vẫn là chưa đủ, quãng thời gian cuối đời, Rilke viết những bài thơ tiếng Pháp, đúng thời điểm bản dịch tiếng Pháp Malte Laurids Brigge (của Maurice Betz) chuẩn bị được in.
Chỉ có Vergers và Les Quatrains valaisans được xuất bản khi Rilke còn sống (NRF, 1926). Les Roses và Les Fenêtres in năm 1927, ngay sau khi Rilke qua đời: Les Roses in tại Stols, Hà Lan, với lời tựa của Valéry, còn Les Fenêtres (Mười bài cửa sổ) in tại Paris, Librairie de France, cùng mười tranh phụ bản của Baladine Klossowska (một trong hai phụ nữ được Rilke đề tặng Les Fenêtres). Mãi đến 1949, loạt thơ cuối cùng (được coi là còn dang dở) Tendres impôts à la France mới được ấn hành lần đầu.
Mười bài cửa sổ là khi cửa sổ được đưa trở lại cốt tủy thuần túy nhất của nó: cửa sổ chính là sự rung động.
* cần phải nhìn thấy ở câu thơ của Rilke, “Tous les hasards sont abolis”, một “parodie”, đồng thời là lời đáp của riêng Rilke, cho cái câu bất hủ của Mallarmé: “Un coup de dés jamais n’abolira le hasard”, một cú gieo xúc xắc chẳng bao giờ loại trừ được sự tình cờ

You must be logged in to post a comment.