Đắc Lộ, Đàng Ngoài, 17

quyển này, mới ra: là tôi tự mua đấy nhé, không được gửi tặng như quyển trước  A Lịch Sơn Đắc Lộ đặt chân đến Đàng Ngoài năm 1627, là người khởi đầu của nhiều thứ (chữ Quốc ngữ thì không hẳn de Rhodes là “cha đẻ”: các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rõContinue reading “Đắc Lộ, Đàng Ngoài, 17”

phê bình văn học Việt Nam: mở rộng

mãi rồi cũng tìm được: Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại (nhà xuất bản Võ Doãn Mại, 1942; về sau này, một số tài liệu viết thành “Võ Doãn Mai”, một số ghi niên đại thành 1941, một số viết là xuất bản ở Huế: riêng chi tiết “Huế” này tôi thấy rất khó xác định,Continue reading “phê bình văn học Việt Nam: mở rộng”

Pascal: châm ngôn

Dẫu sao, nói gì thì nói, nhảy từ Pessoa và Cioran sang Pascal thì cũng hơi kỳ cục thật, nên tôi sử dụng mối nối bằng chính lời của Cioran: “Khi đọc cuốn sách của Bà Périer [Cioran đang muốn nói đến Gilberte Pascal, chị gái của Pascal, vợ của Florin Périer; Pascal còn có một em gái, Jacqueline,Continue reading “Pascal: châm ngôn”

Cioran: châm ngôn

Hôm trước, về María Zambrano, tôi định dịch bài Cioran viết về Zambrano, đặt chung trong cuốn sách viết về các nhân vật như Beckett, Michaux, Borges, vân vân và vân vân, nhưng lên cơn lười, lại thôi. Dưới đây là các châm ngôn của Cioran, lấy từ phần “Magie de la déception” (Ma thuật của lừaContinue reading “Cioran: châm ngôn”

María Zambrano

Hóa ra, nhiều người nghĩ Hannah Arendt đương nhiên là triết gia, lại còn là triết gia lớn. Sự này xuất hiện ở cả những người không chuyên về triết học, nhưng cũng xuất hiện cả ở dân triết học (trông có vẻ) chuyên nghiệp. Trước đây, mặt bánh đa Minnesota cũng từng xưng tụng Arendt, tôi cònContinue reading “María Zambrano”

châm ngôn viết ở rìa một khu rừng (17b)

ký hiệu lưu trữ: B. 52367, tác giả: chưa rõ tờ 17B + hãy cố soi gương vào những lúc nào ta sẽ không nhìn thấy chính bản thân mình; chỉ các thời điểm ấy mới thực sự có ý nghĩa + Virginia Woolf là gì? (đã có người hỏi Who Is Afraid of Virginia Woolf?) nói ngắn gọn,Continue reading “châm ngôn viết ở rìa một khu rừng (17b)”